Chưa từng gặp tác giả Nguyên Phong, trước đây tôi chỉ biết ông là một nhà khoa học danh tiếng toàn cầu và cũng là người phóng tác, viết lại những tác phẩm về văn hóa, tâm linh kinh điển mà nhiều thế hệ bạn đọc Việt, trong đó có tôi, luôn yêu mến.
Hơn năm năm trước, tôi đã có cơ hội trò chuyện với tác giả Nguyên Phong về những bí ẩn xoay quanh tác phẩm kỳ bí Hành Trình về Phương Đông – một tác phẩm nổi tiếng đã ra đời hơn nửa thế kỷ trước nhưng không ai trên thế giới có thể tìm thấy bản gốc. Điều này khiến nhiều độc giả truyền miệng và khiến một nhà xuất bản ở Mỹ phải dịch từ nguyên bản tiếng Việt mà Nguyên Phong đã phóng tác. Tôi đã hiểu rằng phóng tác có nghĩa là viết theo tiềm thức của mình, dựa trên kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống. Từ đó, tôi nhận ra rằng có những người Việt khiêm nhường nhưng không kém cạnh bất kỳ ai trên thế giới này.
Tôi đã có may mắn được nghe ông chia sẻ nhiều câu chuyện trong suốt nhiều năm. Một đêm khuya năm 2016, trong cuộc trò chuyện kéo dài gần đến sáng, tôi đã hỏi ông về Nhân quả và Luân hồi. Ông đã kể lại một mối nhân duyên xảy ra nhiều năm trước, về Thomas – một doanh nhân nổi tiếng ở New York – và những câu chuyện tiền kiếp của mình.
Tôi rất ngạc nhiên và cảm thấy linh cảm khi nhận ra rằng câu chuyện này liên quan đến những khó khăn mà tôi và nhiều người khác đã trải qua trước đây. Tôi hy vọng tác giả Nguyên Phong có thể viết lại những câu chuyện đó thành một cuốn sách. Ông im lặng và không đề cập lại chuyện này trong những cuộc trò chuyện tiếp theo. Sau hơn hai năm, tôi bất ngờ nhận được một email từ ông, gửi kèm là những chương đầu tiên của cuốn sách ông đặt tên là “Muôn Kiếp Nhân Sinh”. Sau khi đọc xong, tôi thầm nghĩ rằng không thể có cái tên nào phù hợp hơn. Tôi biết rằng trong hai năm qua, ông đã bay đến New York nhiều lần để phỏng vấn và trò chuyện với ông Thomas để hoàn thành cuốn sách. Trước đó, tác giả Nguyên Phong đã.
Tôi liên hệ với ông Thomas để xin ý kiến về việc viết một cuốn sách về những câu chuyện tiền kiếp mà ông đã chia sẻ. Ban đầu, tôi không chắc ông Thomas sẽ đồng ý vì nhiều câu chuyện quá riêng tư và nhạy cảm. Tuy nhiên, ngạc nhiên thay, ông Thomas đã đồng ý.
Muôn Kiếp Nhân Sinh là một tác phẩm nghệ thuật to lớn, với hàng ngàn mảnh ghép đa dạng về cuộc sống. Nó như một bộ phim tuyệt vời, sống động, kể về những kiếp sống kỳ bí, từ thời kỳ văn minh mạnh mẽ của Atlantis, đến vương quốc Ai Cập cổ đại dưới quyền của các Pharaoh, và cho đến ngày nay ở Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ – nơi mà nhân vật chính Thomas, người bạn thân của tác giả Nguyên Phong, đang sinh sống.
Muôn Kiếp Nhân Sinh mang đến cho người đọc những kiến thức mới mẻ và vô tận về nhân loại, mở ra lần đầu tiên, cùng những phân tích uyên bác và những dự đoán bất ngờ về hiện tại và tương lai của thế giới từ những bậc hiền triết thông thái. Tác phẩm này nhắn nhủ một thông điệp quan trọng về nguồn gốc và cách thức hoạt động của luật Nhân quả và Luân hồi trong vũ trụ. Cuộc sống con người dường như rất dài nhưng lại trôi qua rất nhanh, với sự sinh sôi và tàn tạ của nó, mong manh như những con sóng nước. Luật Nhân quả là một hệ thống cực kỳ chính xác, chi tiết và phức tạp, được thu thập qua nhiều đời, nhiều kiếp, liên kết và tương hỗ chặt chẽ với nhau. Không ai có thể tính toán được những công đức này có thể trừ bỏ được những nghiệp đáng trừ, và không ai có thể biết được khi nào những hành động của mình sẽ gặt quả. Tuy nhiên, một khi đã gây ra hậu quả, chắc chắn sẽ phải chịu trách nhiệm – luật Nhân quả chưa bao giờ sai.
Luật Luân hồi và Nhân quả đã tạo ra những sức mạnh vô hình trong vũ trụ, tạo điều kiện để hai người gặp nhau và có duyên phận.
Gặp nhau đôi khi là duyên, đôi khi là nợ; gặp nhau có thể để trả nợ, cũng có thể để nối lại duyên xưa. Có vô vàn sự kiện xảy ra trong cuộc sống, dường như là tình cờ nhưng thực tế đã được sắp đặt từ trước.
Luân hồi là một thế giới rộng lớn, nơi mà mọi người và sinh vật đều phải trải qua những bài học riêng của mình cho đến khi trở nên hoàn thiện. Nếu không chịu học hoặc chưa học đủ, chúng ta sẽ phải trở lại và học lại từ đầu, theo quy luật của Nhân quả. Một số người may mắn có thể chứng kiến sự tồn tại của Nhân quả và Luân hồi, trong khi một số khác không. Điều này phụ thuộc vào cơ duyên, nhận thức, trải nghiệm và niềm tin của từng người.
Tôi muốn bày tỏ lòng tri ân chân thành đến tác giả Nguyên Phong, người đã dành thời gian và công sức để viết cuốn sách đặc biệt này. Qua những cuộc trò chuyện, tôi nhận ra rằng ông chỉ có một ước mong duy nhất khi viết cuốn sách này. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến ông Thomas vì tất cả những điều ông đã làm. Tôi muốn chia sẻ với bạn đọc những trải nghiệm sâu sắc và tâm huyết nhất của ông: “Hiện nay thế giới đang trải qua giai đoạn hỗn loạn và xáo trộn, và thực tế là mọi quốc gia đang phải chịu trách nhiệm vì những hậu quả mà họ đã gây ra trong quá khứ. Mỗi quốc gia và mỗi cá nhân đều có những hậu quả riêng do hành động của mình. Cá nhân có “karma” riêng của mỗi người, trong khi quốc gia có “karma” chung mà tất cả người dân sống trong đó phải chịu trách nhiệm.
Hãy nhìn khắp thế giới hiện nay với hơn bảy tỷ người, có bao nhiêu người đang hành động tàn ác, thiếu nhân tính? Có những quốc gia đang đối xử tàn độc với người khác như thế nào? Có bao nhiêu cái chết thương tâm và cuộc sống bi đát của nhiều con người vô tội đã và đang diễn ra? Hãy thử nghĩ nếu tất cả đều chịu học hỏi và hiểu rõ về Nhân quả, biết rõ một khi ‘gieo nhân gì sẽ gặt quả đó’ thì có ai dám hành động như thế không? Thường thì con người, khi hành động, ít ai nghĩ đến hậu quả, nhưng một khi hậu quả xảy đến thì họ nghĩ gì, làm gì? Họ oán trách, trách trời, trách đất, trách những người chung quanh đã gây ra những hậu quả đó? Có bao nhiêu người biết chiêm nghiệm, tự trách mình và thay đổi không? Đó là động lực để tôi chia sẻ những câu chuyện chưa từng kể với ai – dù có những điều thiên cơ bất khả lộ và chấp thuận để tôi chia sẻ những trải nghiệm, bài học vô tiền khoáng hậu này với các bạn, để viết thành một cuốn sách cho nhiều người trên thế giới cùng trải nghiệm – giữa lúc hành tinh đang gặp nhiều tai ương, biến động từng ngày. Tôi hy vọng chúng ta – những cánh bướm bé nhỏ rung động mong manh cũng có thể tạo nên những trận cuồng phong mãnh liệt để thức tỉnh mọi người.
Tương lai của mỗi người, tổ chức, quốc gia và hành tinh này sẽ phụ thuộc vào thái độ, quan điểm và nhận thức của từng cá nhân, tổ chức và quốc gia. Để thay đổi, chúng ta cần bắt đầu bằng việc nhận thức, thay đổi suy nghĩ, lan tỏa tình yêu và chia sẻ kiến thức từ mỗi cá nhân.
Kết quả của hành động không nên chờ đến khi mới tin được. Kết quả của hành động là một hướng dẫn, giúp con người tìm đường trở về đạo đức.
Nguyễn Văn Phước là người sáng lập First News – Trí Việt.
Năm 2008, tôi được mời tham gia một hội nghị khoa học tại Đài Bắc.
Nhân dịp đó, tôi liên hệ với một người bạn thân là giáo sư Raymond Yeh để đến thăm ông. Giáo sư Yeh từng là Trưởng khoa Khoa học Máy tính tại trường Đại học Texas và Đại học Maryland. Ông là một nhà khoa học có uy tín, đã xuất bản nhiều tài liệu nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đại học ở Hoa Kỳ. Ông đã đào tạo nhiều thế hệ khoa học gia và giáo sư nổi tiếng ngày nay. Mặc dù đã nghỉ hưu và sống tại Đài Bắc, ông vẫn tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực khoa học và có ảnh hưởng lớn trên toàn cầu. Giáo sư Yeh rất vui mừng mời tôi đến nhà để cùng ăn tối. Điều bất ngờ là trong bữa ăn đó, còn có sự hiện diện của phi hành gia Edgar Mitchell và một người bạn của ông tên là Thomas K, cũng đến thăm giáo sư Yeh.
Giáo sư Yeh bắt đầu giới thiệu với mọi người rằng phi hành gia Edgar Mitchell là một nhà khoa học xuất sắc với nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng về không gian tại Đại học Harvard và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Ông là một trong sáu người đã đặt chân lên mặt trăng thông qua phi thuyền Apollo 14 vào ngày 31 tháng 1 năm 1971. Trên hành trình trở về trái đất, khi nhìn qua cửa sổ của phi thuyền, ông đã nhận ra rằng trái đất rất nhỏ bé so với vũ trụ bao la và đã trải qua một cảm giác bình an lạ lùng không thể diễn tả.
Sau khi trở về, ông đã nỗ lực tìm hiểu về trạng thái đó bằng mọi phương pháp có thể. Với tư cách là một nhà khoa học, Edgar Mitchell đã cố gắng nghiên cứu để có thể giải thích được nó.
Sự yên bình kỳ lạ này đã được nghiên cứu qua các lý thuyết khoa học nhưng không đạt được kết quả. Ông đã tập hợp một nhóm các nhà khoa học nổi tiếng và thành lập một viện nghiên cứu về mối quan hệ giữa khoa học và trải nghiệm tâm linh (Institute of Noetic Science); tuy nhiên, sau nhiều năm, những nhà khoa học xuất sắc nhất cũng chưa thể đưa ra bất kỳ kết luận nào. Vì vậy, lần này tôi mời ông ấy đến gặp Hòa thượng Thánh Nghiêm, hy vọng rằng ngài có thể giúp ông ấy giải đáp những thắc mắc về trải nghiệm này.
Trong bữa tối đó, chúng tôi đã trò chuyện thân mật về những lý thuyết khoa học mới được phát minh. Tôi nhận thấy phi hành gia Mitchell có tư duy linh hoạt, hiểu biết sâu rộng hơn so với những nhà khoa học khác mà tôi đã gặp.
Ông Mitchell nói rằng, các phát minh khoa học mới nhất đang thúc đẩy con người phải thay đổi cách suy nghĩ và quan niệm của mình, ngay cả với những điều mà trước đây chúng ta cho là đúng. Ngày càng có nhiều khám phá mới, dữ kiện mới, có thể hoàn toàn thay đổi nền tảng khoa học đã được xây dựng trong hàng trăm năm qua. Ví dụ, trong nhiều thế kỷ, chúng ta đã tin rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ và mọi hành tinh, kể cả Mặt Trời và Mặt Trăng, đều quay quanh Trái Đất. Hiện nay, chúng ta biết rằng điều này hoàn toàn sai. Mặt Trời chỉ là trung tâm của một Hệ Mặt Trời, Trái Đất và các hành tinh khác quay quanh Mặt Trời. Tuy nhiên, vũ trụ rất rộng lớn và có nhiều Hệ Mặt Trời khác mà chúng ta chưa biết đến. Theo ước tính của NASA, có hơn một tỷ Hệ Mặt Trời trong vũ trụ, trong đó Hệ Mặt Trời của chúng ta chỉ là một phần nhỏ.
Ông Mitchell đột nhiên trầm ngâm, giọng xúc động: – Chỉ khi con người ra khỏi không gian mới thực sự nhận ra rằng chúng ta quá nhỏ bé giữa vũ trụ bao la này, vượt ngoài sức tưởng tượng. Hiện nay, chúng ta đã biết rằng sự sống đã tồn tại trên trái đất hàng triệu năm, nhưng ai biết sự sống cũng có thể tồn tại trên các hành tinh khác hoặc các hệ mặt trời khác.
Chúng ta cho rằng loài người là thông minh nhất khi so sánh với các loài khác.
Có thể tồn tại những sinh vật thông minh vượt trội hơn chúng ta từ các hành tinh khác mà chúng ta chưa được hiểu biết.
Khá lâu trước đây, ta từng cho rằng phân tử là vật thể nhỏ nhất trên thế giới. Tuy nhiên, sau đó ta phát hiện ra nguyên tử và tin rằng nguyên tử mới là vật thể nhỏ nhất. Hiện tại, ta biết rằng nguyên tử không chỉ là vật thể nhỏ nhất mà còn có những hạt lượng tử nhỏ hơn nhiều. Nếu ta tiếp tục nghiên cứu, có thể sẽ còn tồn tại những thứ nhỏ hơn nữa. Do đó, kiến thức của chúng ta luôn thay đổi theo các khám phá mới của khoa học. Nếu ta có thể chứng minh được rằng neutrino di chuyển nhanh hơn vận tốc ánh sáng, thì quan niệm về thuyết tương đối của Einstein sẽ phải thay đổi và quỹ đạo của mọi hành tinh trong vũ trụ sẽ khác hoàn toàn so với những gì ta đo được ngày nay.
Ông dừng lại và nhấn mạnh từng từ: – Vấn đề là chúng ta sẽ phản ứng như thế nào với những thông tin mới được khám phá? Liệu chúng ta có chấp nhận rằng những gì chúng ta đã tin tưởng từ lâu chỉ là những lý thuyết không còn giá trị nữa không? Hay chúng ta vẫn kiên quyết giữ vững quan điểm cũ vì đã coi chúng là sự thật tuyệt đối? Giáo sư Yeh đồng ý và tiếp tục: – Khoa học thực nghiệm là sự kết hợp của kiến thức thu thập từ nhiều cuộc thí nghiệm, với dữ liệu được đo lường, quan sát và kiểm chứng. Là nhà khoa học, chúng ta luôn tìm kiếm, học hỏi và nghiên cứu dựa trên lý thuyết, đặt ra giả thuyết, sau đó chứng minh chúng đúng hoặc sai. Tất cả những gì chúng ta xây dựng dựa trên các công cụ đo lường; nhưng với sự tiến bộ của khoa học, khi các công cụ này ngày càng tinh vi và chính xác hơn, chúng ta sẽ tìm thêm dữ liệu mới để bổ sung cho dữ liệu hiện có và tiếp tục xây dựng nền khoa học hiện đại. Nói đúng thì khoa học thực nghiệm là một quá trình luôn thay đổi để bổ sung cho những điều chưa hoàn hảo trước đây.
Ông Mitchell nở nụ cười:
Tuy nhiên, sẽ đến một thời điểm mà chúng ta sẽ khám phá ra những dữ liệu hoàn toàn khác biệt so với những dữ liệu trước đó. Chúng ta sẽ đưa ra những giả thuyết mới để thay đổi những quan niệm hiện tại và chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc cách mạng khoa học phá vỡ tất cả những gì chúng ta đã xây dựng trước đây.
Bất ngờ, ông Mitchell đột nhiên hỏi tôi: “Anh cũng là một nhà khoa học, vậy anh nghĩ thế nào?” Tôi suy nghĩ một lúc và trả lời: “Một cuộc cách mạng khoa học như vậy có lẽ cần nhiều yếu tố hơn việc đưa ra một lý thuyết mới để phủ nhận những lý thuyết trước đó. Theo tôi, trước tiên chúng ta cần xem xét lại các quan niệm trước để hiểu tại sao chúng không còn đúng nữa. Như giáo sư Yeh đã nói, nếu chúng ta có thể phát triển ra những công cụ tinh vi hơn, chính xác hơn, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng công cụ trước đây không hoàn hảo. Nếu chúng ta có thể chứng minh rằng những dữ liệu mới này có tính hợp lý, chính xác và có giá trị hơn, thì chúng ta có thể đưa ra bằng chứng để ủng hộ lý thuyết mới và thay thế lý thuyết cũ không còn hiệu lực. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng việc thay đổi tư duy của mọi người sẽ mất rất nhiều thời gian.”
Cuộc thảo luận về các phát minh khoa học tiếp tục diễn ra, tuy nhiên, chủ yếu là cuộc trò chuyện giữa phi hành gia Mitchell và giáo sư Yeh.
Tôi và ông Thomas chỉ ngồi lắng nghe, đôi khi thêm vào vài câu trò chuyện nhẹ nhàng.
Ông Thomas tập trung vào cuộc trò chuyện, thỉnh thoảng mỉm cười nhưng không nói gì. Có lẽ vì ông là doanh nhân, không phải là nhà khoa học như chúng tôi nên ông ít nói hơn.
Sau khi ăn xong, ông Mitchell hỏi tôi liệu tôi có muốn đi cùng với chúng tôi để gặp Hòa thượng Thánh Nghiêm vào ngày mai hay không. Tôi không thể từ chối một cơ hội hiếm có như vậy.
Buổi gặp gỡ đã được sắp xếp trước đó diễn ra tại giảng đường Đại học Đài Bắc với sự tham gia của một số sinh viên và giáo sư. Giáo sư Yeh đã đảm nhận vai trò chủ trì buổi nói chuyện.
Giáo sư Yeh khởi đầu cuộc họp mặt.
Ông Mitchell, xin hãy chia sẻ về trải nghiệm độc đáo khi bay trên không gian vũ trụ trước Hòa thượng Thánh Nghiêm và trả lời những câu hỏi mà ông có.
Phi hành gia Mitchell đã nói: – Thưa Hòa thượng, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trên mặt trăng, chúng tôi bắt đầu quay trở về trái đất. Trong quá trình bay trong không gian, phi thuyền của chúng tôi phải liên tục xoay quanh trục di chuyển 360 độ để làm giảm sức nóng phát ra từ ánh sáng mặt trời.
Vì vậy, mỗi hai phút, tôi lại nhìn thấy trái đất, mặt trăng và mặt trời qua cửa kính của phi thuyền. Ngoài ra, không gian không có bầu khí quyển, cho nên chúng tôi có thể nhìn thấy các hành tinh rất rõ. Khi ở trên trái đất, chúng ta nhìn lên bầu trời và thấy các vì sao lấp lánh do ảnh hưởng của bầu khí quyển; nhưng trong không gian, tất cả đều sáng rõ như một mạng lưới khổng lồ với hàng ngàn hàng vạn vì sao trông như những hạt kim cương tỏa sáng. Đó là một hình ảnh tuyệt vời đối với các phi hành gia chúng tôi lúc đó. Ngày nay, mọi người có thể nhìn thấy hình ảnh này qua kính viễn vọng Hubble hoặc qua các hình ảnh mà Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ chụp và đưa lên mạng. Nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy vũ trụ đẹp vô cùng, không lời nào có thể diễn tả được.
Là một nhà khoa học, tôi biết rằng tất cả các tế bào và nguyên tử trong cơ thể tôi, cũng như cơ thể của bạn và nguyên tử tạo nên phi thuyền, đều bắt nguồn từ hành tinh của chúng ta, hay nói cách khác, từ nguồn gốc trong vũ trụ. Mọi hiện tượng vật chất đều xuất phát từ vũ trụ này. Từ đó, tôi nhận thức rằng thân thể của tôi và tất cả các vật trong vũ trụ không có gì khác biệt. Thay vì là các thực thể độc lập, các thành phần riêng rẽ, tôi nhận thức rằng chúng ta đều có cùng một nguồn gốc. Khi nhận ra điều này, cả thân thể tôi bỗng rung động mạnh mẽ. Tôi cảm nhận được một cảm giác bình an lạ thường không thể diễn tả. Trải nghiệm này lặp lại mỗi khi tôi không bận rộn. Là một phi hành gia, chúng tôi luôn bận rộn với việc điều khiển phi thuyền và thực hiện các thí nghiệm khoa học trong phi thuyền, nhưng đôi khi tôi cũng có thời gian để trải nghiệm những điều này.
Ngừng lại, nhìn ra khung cửa sổ để ngắm nhìn vẻ đẹp kỳ diệu của vũ trụ và trải nghiệm cảm giác bình yên khác thường này.
Mỗi khi phi thuyền quay, tôi nhìn thấy trái đất, mặt trăng, mặt trời và những vì tinh tú lấp lánh. Vũ trụ trông giống như một tấm lưới với hàng triệu vì sao phát ra ánh sáng rực rỡ, và tôi hiểu rõ khái niệm “vạn vật đồng nhất thể”.
Nếu đã đồng nhất với tất cả, vạn vật không thể tách rời và liên quan chặt chẽ với nhau. Đây là một quan niệm mới mẻ mà trước đây, chúng tôi không ai nghĩ đến.
Trong trải nghiệm đặc biệt yên bình đó, tôi tự đặt câu hỏi: “Tôi thực sự là ai? Tôi xuất phát từ đâu? Và tôi sẽ đi về đâu? Vũ trụ được hình thành và có liên kết như thế nào với trái đất và những con người sống trên đó? Có phải chúng tôi, những người đầu tiên khám phá không gian, đã nhận thức được mối quan hệ rõ ràng giữa con người và vũ trụ, khác biệt so với quan điểm của những người chưa từng rời xa trái đất?”
Từ ý niệm này, tôi nghĩ rằng có thể đã đến lúc phải tìm cách thay đổi các quan niệm định kiến chật hẹp đã giam cầm nhiều thế hệ từ trước đến nay bằng một quan niệm mới về sự tương quan giữa con người và vũ trụ. Có thể các định luật khoa học, các kiến thức được xây dựng từ ngàn xưa sẽ phải thay đổi khi chúng ta nhìn lại tất cả những gì chúng ta đã làm trên trái đất này, sau khi chứng kiến sự nhỏ bé của chúng ta so với vũ trụ bao la. Ngay như nền khoa học hiện đại bắt đầu khoảng bốn trăm năm trước với Isaac Newton cũng sẽ phải thay đổi khi con người bước ra khỏi tầm ảnh hưởng của sức hút trái đất.
Khi suy nghĩ về điều đó, tôi bỗng nghĩ đến những nhà tiên phong như Copernicus, Galileo và các nhà khoa học khác đã đưa ra quan điểm về mối liên hệ giữa Trái đất và vũ trụ, nhưng phải đối mặt với sự phản đối và kỳ thị từ những quan niệm hạn hẹp và thiển cận của thời đại đó. Một số người bị thiêu sống, một số người bị giam cầm cho đến chết, nhưng sự thật vẫn là sự thật, không thể bị bác bỏ. Tất cả những quan điểm bảo thủ và hạn hẹp cuối cùng cũng phải thay đổi khi con người nhìn lên cao, vượt qua những thành kiến cũ và mở rộng tâm hồn để nhìn thấy vẻ đẹp vô tận của vũ trụ.
Phi hành gia Mitchell dừng lại để suy nghĩ, sau đó tiếp tục: – Khi trở về trái đất, tôi luôn thắc mắc về cảm giác bình an kỳ lạ này. Tôi đã tìm đọc rất nhiều sách khoa học nhưng không tìm thấy giải thích cho hiện tượng này. Sau đó, tôi chuyển sang nghiên cứu các sách tôn giáo phương Tây nhưng cũng không có kết quả. Tôi đã tìm đến các học giả thông thái nhưng không ai có thể giải đáp thắc mắc của tôi. Một người bạn đã gợi ý tôi nên đọc các tài liệu về tôn giáo phương Đông, và từ đó tôi bắt đầu nghiên cứu Phật giáo, đặc biệt là các sách về đại định (Samadhi). Tôi nhận thấy có sự tương đồng giữa trải nghiệm của tôi trên không gian và trạng thái thiền định được miêu tả trong triết học phương Đông.
Giáo sư Yeh đột nhiên hỏi: – Liệu có phải cảm giác đó là khi ta cảm thấy hòa hợp với tất cả mọi vật? Phi hành gia Mitchell trả lời: – Đúng vậy, lúc đó tôi không còn thấy sự khác biệt giữa bản thân và mọi vật nữa. Cảm giác hòa hợp, rung động cùng với sự di chuyển của vũ trụ, là một trải nghiệm kỳ diệu không thể diễn tả bằng lời.
Giáo sư Yeh hỏi Hòa thượng Thánh Nghiêm về quan niệm Phật giáo về trải nghiệm không phân biệt giữa mình và vạn vật của phi hành gia Mitchell. Hòa thượng Thánh Nghiêm mỉm cười và nói rằng ông rất mừng cho Mitchell đã có một trải nghiệm đặc biệt. Ông cho biết rằng trong hàng ngàn, hàng vạn người, không nhiều người có được trải nghiệm như vậy. Trong cuộc sống, khi ta trải nghiệm một điều hoàn toàn mới mẻ, có thể thay đổi hoàn toàn các trải nghiệm cá nhân từ trước, ta có thể coi đó là một sự chứng ngộ. Tuy nhiên, đó cũng có thể chỉ là một cảm giác tạm thời.
Ví dụ như, không lâu trước đây, một đệ tử của tôi cũng trải qua một trải nghiệm đặc biệt. Sau một khóa tu thiền kéo dài bảy ngày, anh ta trở về nhà. Trên đường trở về, anh ta chú ý đến tất cả cây cối, hoa lá, từ những con côn trùng nhỏ bé cho đến những chiếc lá cây, ngọn.
Cỏ rất vui mừng chào đón anh. Anh cảm nhận được một niềm an lạc tuyệt vời như hòa nhập với môi trường xung quanh và tin rằng anh đã có trải nghiệm sâu sắc. Anh vội vàng quay lại kể cho tôi nghe về trải nghiệm đó.
Tôi đã nói với anh rằng dù đó là một khoảnh khắc trải nghiệm tuyệt vời, nhưng nó cũng có thể biến mất chỉ trong một thoáng. Đừng xem đó là một sự chứng ngộ. Nếu không tin, hãy quay lại khu vườn đó để xem liệu cây cỏ, hoa lá và muông thú có chào đón anh như trước không.
Khi trở về, anh không cảm nhận được trải nghiệm như trước đó nên đã hỏi: “Làm sao để con có thể đạt lại cái cảm giác tuyệt vời đó?”. Tôi đáp: “Không ai có thể sở hữu mãi mãi trải nghiệm đã qua. Nếu muốn giữ nó mãi, anh thật tham lam. Có được trải nghiệm này chỉ là một kết quả của quá trình tu tập. Đó không phải là sự chứng ngộ như anh mong đợi.
Mục đích của tu tập thiền định là để phát triển trí tuệ và xóa bỏ bản ngã. Nếu chúng ta đạt đến trạng thái Vô ngã thì thế giới này còn tồn tại nữa không? Nếu chúng ta đạt đến trạng thái Tâm vô phân biệt thì làm gì còn có chúng ta hay thế giới này nữa? Đối với đa số mọi người, thế giới này thật sự hiện hữu, nhưng đối với những người đã chứng ngộ thì thế giới này chỉ là huyễn ảo, không có thật, do đó tất cả trải nghiệm dù là trải nghiệm gì đi chăng nữa, cũng chỉ là huyễn ảo chốc lát mà thôi. Chúng ta không nên để ý đến nó hay muốn nắm giữ nó mãi làm gì.
Giáo sư Yeh tiếp tục hỏi: – Bạch Hòa thượng, vậy chúng ta không nên gắn bó với những trải nghiệm mà chúng ta có được à? Hòa thượng Thánh Nghiêm đáp: – Dù trải nghiệm diễn ra như thế nào, hãy để nó tự nhiên đến và đi. Có thể đó chỉ là những suy nghĩ trong tâm thức, và chúng sẽ thay đổi, bởi vì mọi thứ đều thay đổi. Dù nó có tồn tại thực tế, hãy xem nó chỉ là những hiện tượng của tâm thức.
Tuy nhiên, đối với những người đã trải qua trải nghiệm và thay đổi hoàn toàn nhận thức của họ, sống với tâm thức đó, chúng ta có thể kết luận rằng họ đã chứng ngộ. Theo quan.
Niệm của Phật giáo, người này đã có một “nhân” lành từ trước và đến nay nó bắt đầu trổ “quả” .
Hòa thượng Thánh Nghiêm tiếp tục chia sẻ: – Phi hành gia Mitchell, một nhà khoa học, không thể giải thích trải nghiệm đó bằng lý thuyết khoa học, không thể chứng minh nó qua các cuộc thí nghiệm hoặc tạo ra lý thuyết bằng phương pháp luận lý. Ông cho rằng đây là một kiến thức mới mà khoa học cần khám phá và nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, ông nên nhận thức rằng cảm giác đó thuộc về phạm trù tâm linh trong tôn giáo mà khoa học không thể giải thích. Triết học và luận lý cũng không thể giải thích được, vì đó là một trải nghiệm tinh thần chỉ xảy ra với một người duy nhất – ông.
Trải nghiệm đó đã thay đổi toàn bộ cách tư duy của ông.
Từ đó, ông cảm nhận rằng nó đã trở thành một phần không thể tách rời của ông. Trải nghiệm này vượt ra khỏi giới hạn của khoa học vì không ai có thể diễn tả hoặc giải thích được nó, không thể chứng minh được, và không ai có trải nghiệm tương tự. Đó là một trải nghiệm cá nhân duy nhất. Ai uống nước thì tự cảm nhận được nóng hay lạnh. Trong trường hợp của ông, chỉ có ông cảm nhận được sự hòa hợp và an lạc cá nhân với vũ trụ, không còn phân biệt giữa ông và vũ trụ. Có những phi hành gia khác ở trong phi thuyền cùng ông. Tại sao họ không có trải nghiệm tương tự? Tại sao chỉ có ông cảm nhận được điều đó? Nếu theo quan điểm khoa học, nếu ông cảm nhận điều gì đó, tất cả mọi người khác cũng sẽ cảm nhận như vậy.
Kết luận, điều này không thể được giải thích hoặc chứng minh bởi khoa học, vì nó vượt ra khỏi phạm vi của khoa học.
Giáo sư Yeh tiếp tục hỏi: – Ông Mitchell, trải nghiệm độc đáo đó có còn ảnh hưởng đến ông không? Sau khi trở về trái đất, ông có cảm nhận tương tự không? Phi hành gia Mitchell trả lời: – Đúng vậy, tôi vẫn cảm nhận và sống trong trạng thái hạnh phúc vô tận này. Nó đã thay đổi hoàn toàn quan niệm của tôi về con người và vũ trụ, vì vậy tôi đã cố gắng giải thích nó từ các góc độ khoa học, luận lý, triết học và tâm linh. Tôi đồng ý với quan điểm của Hòa thượng Thánh.
Dù tôi là một nhà nghiên cứu khoa học, tôi vẫn quan tâm đến việc kết hợp khoa học với trải nghiệm nội tại, nhằm mở ra một tầm nhìn mới cho kiến thức chưa được khám phá của con người.
Giáo sư Yeh tiếp tục đặt câu hỏi: – Ông nghĩ sao về các lý thuyết khoa học còn thiếu sót hiện nay? Chẳng hạn như giả thuyết về sự hình thành vũ trụ qua vụ nổ Big Bang? Phi hành gia Mitchell trả lời: – Khoa học thực nghiệm được xây dựng từ những lý luận, rồi được chứng minh qua các cuộc thí nghiệm với những dữ liệu chính xác. Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ qua vụ nổ Big Bang mặc dù được đa số chấp nhận nhưng chưa ai có thể chứng minh nó một cách chính xác. Do đó, nó vẫn chỉ là một giả thuyết. Nó giải thích được một số hiện tượng, nhưng nó chưa hoàn chỉnh để có thể được công nhận là sự thật tuyệt đối. Theo tôi thì với đà tiến triển của khoa học ngày nay, giả thuyết này có thể trở nên lỗi thời, khi có thêm những bằng chứng hay dữ liệu khác. Tôi không nghĩ vũ trụ chỉ là kết quả của một vụ nổ, mà là một cái gì đó vận động, thay đổi không ngừng, do đó rất khó định nghĩa thật rõ ràng.
Giáo sư Yeh đặt câu hỏi: – Nếu ta bỏ đi lý thuyết về vụ nổ Big Bang, liệu thời gian có bắt đầu từ khi vũ trụ được hình thành hay không, mà thay vào đó là một thứ gì đó không có sự khởi đầu? Phi hành gia Mitchell giải thích thêm: – Đối với tôi, thời gian chỉ là một đơn vị đo lường có tính tương đối.
Con người là người đã đề xướng khái niệm “thời gian” trên trái đất, không phải là tự nhiên nó phân chia ra như vậy. Chúng ta đã tạo ra khái niệm về thời gian và chia nó thành nhiều phần nhỏ.
Khi chúng ta đi lên Sao Hỏa hoặc Sao Kim, chúng ta sẽ phải thay đổi cách chia thời gian.
Thay đổi thời gian để tạo ra sự khác biệt. Nếu chúng ta tiếp tục di chuyển vào không gian, thì thời gian trên trái đất sẽ mất đi giá trị.
Giáo sư Yeh quay sang hỏi Hòa thượng Thánh Nghiêm: – Bạch Hòa thượng, ông Mitchell, một nhà khoa học không gian và là một phi hành gia nổi tiếng, cũng không hoàn toàn tin vào giả thuyết về sự hình thành vạn vật qua vụ nổ Big Bang. Ông cho rằng vũ trụ là một cái gì đó luôn luôn thay đổi. Nếu như vậy, liệu có thể vạn vật không có khởi đầu hay chấm dứt, mà chỉ là một quá trình thay đổi không ngừng? Bạch Hòa thượng, quan niệm này có khác với quan niệm trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) của Phật giáo không? Hòa thượng Thánh Nghiêm trả lời: – Cho đến nay, mọi người đều cho rằng vạn vật được hình thành từ vụ nổ Big Bang. Các nhà khoa học cũng dựa vào giả thuyết này để đưa ra các lý luận khoa học về không gian, thời gian và những vấn đề khác. Tôi rất vui mừng khi một nhà khoa học và phi hành gia nổi tiếng như ông lại có quan điểm khác. Ông tin rằng vũ trụ luôn luôn thay đổi và vận động không ngừng, do đó rất phù hợp với quan niệm “thành, trụ, hoại, diệt” của Phật giáo, vì mọi sự vật và hiện tượng đều trải qua quá trình thay đổi, không có khởi đầu hay chấm dứt. Điều này rất tương thích với quan niệm của Phật giáo.
Tuy nhiên, tôi muốn bổ sung rằng quan niệm vũ trụ trong Phật giáo không phân biệt thời gian và không gian như hai thực thể riêng biệt, mà bao gồm cả thời gian và không gian. Thời gian bao gồm quá khứ, hiện tại và tương lai, trong khi không gian bao trùm sáu hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới). Tuy nhiên, liệu thời gian có thực sự tồn tại không? Không! Thời gian chỉ được hình thành khi có một vật thể di chuyển trong không gian, và nếu ta có thể đo được sự di chuyển đó, thì thời gian mới tồn tại. Nói cách khác, nếu ta cảm nhận được sự thay đổi trong không gian, thì thời gian mới có hiện hữu. Nếu không có sự di chuyển trong không gian, thì không có thời gian. Tuy nhiên, liệu không gian có tồn tại không? Cũng không! Nếu ta không cảm nhận được thời gian, thì không gian cũng không có hiện hữu. Tất cả chỉ là một sự tồn tại vô hình.
Phật giáo cho rằng vũ trụ là sự kết hợp giữa không gian và thời gian, một yếu tố không thể thiếu trong quan niệm của họ.
Cái đó không, tất cả đều liên quan, tương tự và tương nhập mật thiết. Tóm lại, mọi sự vật trong vũ trụ đều có tính tương đối, tức là đều không cố định, không tồn tại riêng biệt và xuất hiện do duyên số.
Thời gian và không gian, mặc dù có tên gọi khác nhau, nhưng thực chất là một thực thể duy nhất, được gọi là “vạn vật đồng nhất thể”, một là tất cả, tất cả là một.
Hòa thượng Thánh Nghiêm tiếp tục giải thích rằng ngành vật lý không gian đã chứng minh điều này thông qua thuyết Tương đối của Albert Einstein. Đặc biệt, quan niệm về không gian bốn chiều đã được nhấn mạnh, cho thấy không gian và thời gian không phải là hai thực thể tuyệt đối độc lập, mà chỉ có tính tương đối.
Cần sử dụng thuật ngữ “kỳ gian” (space-time) để chỉ cả hai thực thể này, bởi vì tính chất của chúng là sự kết hợp hoàn hảo, hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, tương tác và tương thích với nhau một cách tuyệt vời.
Einstein đã sử dụng trí tuệ phi thường của mình để khám phá ra luật Tương đối, cho thấy rằng vận tốc, thời gian, không gian và khối lượng đều có tính tương đối chứ không tuyệt đối. Ông đã chứng minh công thức E = mc 2, cho thấy rằng năng lượng của một vật khi di chuyển với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng là khối lượng của vật đó nhân với lũy thừa của vận tốc ánh sáng. Khi vận tốc giảm xuống, năng lượng sẽ chuyển đổi trở lại thành vật chất.
Hòa thượng Thánh Nghiêm quay mặt về phía phi hành gia Mitchell và nói một cách rõ ràng: – Như ông cũng biết, năng lượng và khối lượng là như nhau, tinh thần và vật chất cũng không khác nhau. Đây chính là lời mà Đức Phật đã truyền dạy trong kinh Hoa Nghiêm từ hơn hai ngàn năm trước: “Tâm và vật, cùng một thể – tất cả vạn vật đều đồng nhất, đó là nguyên lý ‘sự sự vô ngại pháp giới'”. Để tiếp cận được cảnh giới Hoa Nghiêm này, ông phải đi qua cánh cửa tâm linh, không thể dựa vào những cảm giác phân biệt hay luận lý dựa trên suy ngẫm của “thức”. Chỉ có cánh cửa tâm linh mới có thể kết hợp thời gian và không gian, đưa ông vào cuộc sống “hằng mà chuyển” duy nhất.
Trước đây, ông đã phủ nhận rằng vũ trụ được hình thành từ vụ nổ Big Bang và cho rằng vũ trụ này luôn thay đổi. Tuy nhiên, ai có thể nhận thức được sự thay đổi này? Có phải là con người không? Những sinh vật khác không có trí tuệ như con người không có ý thức rõ về vũ trụ như con người. Con người có khả năng hiểu biết về thời gian và không gian một cách rõ ràng.
Quan điểm cơ bản về việc tạo ra vũ trụ là khi thời gian và không gian cùng tồn tại.
Hòa thượng Thánh Nghiêm quay lại nói với giáo sư Yeh rằng, ông đã hỏi liệu quan niệm này có phù hợp với quan niệm của kinh Hoa Nghiêm không. Đúng vậy, chủ trương của kinh Hoa Nghiêm là “pháp giới duyên khởi”, có nghĩa là mọi sự, mọi vật đều được hòa hợp và hình thành nhờ vào nhân duyên, tất cả đều phụ thuộc vào nhau, sinh nhân quả và quả lại sinh nhân, lớp lớp trùng nhau, có khi hòa hợp, có khi đối chọi, tác động lẫn nhau để tạo ra, không có cái nào tồn tại, tồn tại độc lập. Điều này phụ thuộc vào cái kia, cái kia phụ thuộc vào cái này. Vì không có điểm kết thúc chung, nên được gọi là “trùng trùng duyên khởi”.
Vì vậy, “một là tất cả, tất cả là một”, mọi sự, mọi vật đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuân theo luật lệ của vũ trụ như vô thường, vô ngã. Điểm đặc biệt của kinh Hoa Nghiêm là nói về sự “động” của vũ trụ, có tính chất biến đổi, thay đổi không ngừng.
Hòa thượng Thánh Nghiêm quét mắt qua mọi người và nhấn mạnh: – Sự biến đổi này cũng là đặc điểm của cuộc sống không thường xuyên của chúng ta mà không ai để ý. Chúng ta được sinh ra, lớn lên, già đi và qua đời. Trong mỗi giây, mỗi phút, cơ thể chúng ta thay đổi với hàng ngàn tế bào chết đi và hàng ngàn tế bào mới được tạo ra. Sự biến đổi được đo lường theo thời gian và chia thành ba giai đoạn: “Quá khứ, hiện tại và tương lai”. Thực tế, sự phân chia này chỉ là tương đối vì trong một thời điểm vẫn có thể nói đến các giai đoạn khác. Ba giai đoạn có thể tồn tại độc lập hoặc xen kẽ, thay đổi hoặc liên kết với nhau. Ví dụ, khi suy nghĩ, chúng ta có thể nhận thức được nhiều sự việc trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai.
Mọi sự, mọi vật trong vũ trụ đều tương tác theo nhân duyên và hình thành thành sự và vật. Quá trình tương tác và biến đổi này diễn ra liên tục trong chu kỳ sinh hóa. Nhờ vào sự chia thành các khoảng thời gian này, chúng ta có thể hiểu được các nguyên tắc Vô thường, Vô ngã, Duyên sinh và Nhân quả. Kinh Hoa Nghiêm giải thích rằng vũ trụ được hình thành từ vô tận nhân duyên, dù có hình dạng khác nhau nhưng tất cả đều có cùng một bản chất, bình đẳng và thông suốt. Bản chất này chính là tâm chân như.
Từ chân như tạo ra vô tận. Vô tận là huyền ảo mà chúng ta lại cho là thực.
Nhờ kỹ năng quan sát thông qua thiền định sâu xa, chúng ta có thể hiểu và nhìn thấy mọi sự, mọi vật như chúng thực sự là. Khi chúng ta tập trung vào việc quan sát sâu sắc, chúng ta có thể thấy qua cái bề ngoài để nhìn thấy bản chất bên trong. Khi chúng ta đưa tâm hướng lên cao, vượt qua thế giới hiện tượng và đạt đến cảnh giới vô sai biệt, chúng ta mới thực sự hiểu rõ bản chất của mọi sự vật.
Giáo sư Yeh hỏi phi hành gia Mitchell: – Hòa thượng đã trình bày về sự thành lập vũ trụ qua lăng kính của Phật giáo. Là một nhà khoa học về không gian, ông nghĩ sao về quan niệm này? Phi hành gia Mitchell trả lời: – Có nhiều quan niệm khác nhau về sự tạo lập vũ trụ. Ngay cả những nhà khoa học thông thái nhất cũng không đồng ý với nhau, người nói thế này, người nói thế khác. Người đặt ra lý thuyết này, người đưa ra quan niệm khác. Tất cả đều là những giả thuyết, chưa ai chứng minh được một cách rõ ràng với các dữ liệu chính xác. Tuy nhiên, nếu nói tất cả là “Không” thì đa số mọi người sẽ hiểu lầm là không có gì, và nếu nói vũ trụ không có thật thì không ai tin được. Càng tìm hiểu về những điều này, các nhà khoa học, ngay như chính tôi đây, cũng bối rối. Hãy cho rằng vũ trụ là một cái gì đó thật sự hiện hữu đã, nhưng khoa học sẽ giải thích như thế nào? Ai tạo ra nó? Nó đến từ đâu? Nó bắt đầu như thế nào? Khoa học thực nghiệm đòi hỏi phải có sự chứng minh, giải thích, đưa ra những lý thuyết, rồi tìm ra những dữ liệu để biện minh cho lý thuyết đó đúng hay sai .
Thế kỷ 21 là thời đại của nhiều sáng tạo, con người đã khám phá ra nhiều điều mà trước đây chỉ tồn tại trong tưởng tượng. Hiện nay, có nhiều lý thuyết và quan niệm mới hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây. Nhân loại đã có những thành tựu đáng kinh ngạc như đặt chân lên mặt trăng và khám phá vũ trụ, nhưng vẫn còn rất nhiều điều chúng ta chưa biết. Giải thích về vũ trụ vẫn là một thách thức lớn đối với các nhà khoa học như chúng tôi.
Tuy nhiên, quan điểm về sự tương thông và dung nhiếp thay vì phân chia là một quan niệm phù hợp với lý thuyết vật lý lượng tử. Trong nhiều năm qua, chúng tôi đã nghiên cứu việc sử dụng các công cụ khoa học của vật lý lượng tử để khám phá mối liên hệ giữa khoa học và tâm linh. Mặc dù chúng tôi chưa đưa ra được kết luận rõ ràng, nhưng đã có nhiều bằng chứng cho thấy vật lý lượng tử sẽ đưa khoa học thực nghiệm tiến xa hơn.
Giáo sư Yeh đặt câu hỏi: – Nếu vậy, thì thuyết Big Bang sẽ không còn ý nghĩa nữa à? Phi hành gia Michell chia sẻ: – Không chỉ riêng tôi, mà các nhà khoa học khác cũng đồng ý với quan điểm đó.
Có nhiều bằng chứng cho thấy giả thuyết này không hoàn toàn như mọi người nghĩ. Nghiên cứu khoa học đã tìm ra nhiều dữ liệu mới, trái ngược với dữ liệu về vụ nổ Big Bang. Tuy nhiên, cần thêm nhiều cuộc thí nghiệm trước khi có thể đưa ra kết luận chính xác.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, khoa học đang ngày càng phát triển và tìm ra nhiều dữ liệu mới để chứng minh rằng một số lý thuyết trước đây không còn đúng nữa. Ví dụ, trong quá khứ, Einstein đã cho rằng tốc độ của ánh sáng là tuyệt đối và không có gì có thể vượt qua nó. Tuy nhiên, quan niệm về tính “vô định xứ” trong vật lý lượng tử đã chứng minh rằng có những tín hiệu có thể di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Thêm vào đó, trong thí nghiệm về cảm giác nhận thức siêu việt (ESP), khi một ý tưởng nảy ra, người khác có thể nhận biết được ngay lập tức. Tôi đã thực hiện thí nghiệm này trên mặt trăng và người ở trái đất đã có thể nhận được những tín hiệu này ngay tức thì.
Không chỉ một lần mà nhiều lần, những tín hiệu này di chuyển nhanh hơn ánh sáng rất nhiều khi chúng ta đo lường thời gian và khoảng cách. Theo quan niệm vật lý lượng tử về tính “vô định xứ”, tín hiệu của cảm giác hoặc tư tưởng phát xuất từ bộ óc con người có thể di chuyển nhanh không giới hạn.
Giáo sư Yeh đưa ra ý kiến bổ sung: – Một khía cạnh của quan niệm về “vô định xứ” là lý thuyết về sự tương quan giữa hai thực thể. Khi một thực thể rung động hoặc cảm nhận điều gì đó, thì thực thể khác cũng cảm nhận được ngay lập tức. Mặc dù đây chỉ là một giả thuyết khoa học, nhưng nó có thể được sử dụng để giải thích sự đồng cảm giữa hai người hoặc quan niệm về Nhân quả.
Phi hành gia Mitchell gật đầu: – Đúng vậy, quan điểm về Nhân quả trong Phật giáo rất phù hợp với các lý thuyết khoa học hiện đại. Vật lý đã chứng minh rằng khi chúng ta ném một vật lên không trung, vật đó sẽ rơi xuống do sức hút của trái đất. Tương tự, một hành động sẽ mang lại một kết quả. Mọi động lực đều có một phản lực tương ứng. Hiện nay, tất cả các nhà khoa học đều chấp nhận quan điểm này.
Giáo sư Yeh tiếp tục đặt câu hỏi cho Hòa thượng Thánh Nghiêm: – Bạch Hòa thượng, phi hành gia Mitchell vừa giải thích về mối liên hệ giữa hai thực thể. Vậy điều này có thể giải thích về quy luật nhân quả trong đạo Phật như thế nào? Hòa thượng Thánh Nghiêm trả lời: – Theo ngôn ngữ Phạn, Karma có nghĩa là hành động. Mọi hành động như cử chỉ (thân), lời nói (khẩu) hay ý nghĩ (ý) đều tạo ra một phản ứng hay kết quả. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng những hành động này phải dựa trên ý thức. Do đó, quan hệ giữa nhân quả và ý thức là chặt chẽ, tương tự như giả thuyết khoa học về sự tương quan lượng tử mà phi hành gia Mitchell vừa trình bày.
Thức thuộc về phạm trù tinh thần. Phật giáo có nhiều cách giải thích về thức. Theo phái Duy Thức (Vijnanamatra), thức có thể chia thành sáu phần chi tiết là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý, tương ứng với sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và óc. Ngoài ra còn có thức thứ bảy hay căn thức (Mạt na thức) và thức thứ tám là tàng thức (A lại da thức).
Năng lực bắt nguồn từ ý thức thứ sáu, gọi là phân biệt thức, vì nó tạo ra sự phân biệt giữa đúng và sai, tốt và xấu. Năm thức trước đó chỉ là nhận thức các cảm giác mà không tạo ra nghiệp.
Khi những cảm giác này xuất hiện, thức thứ sáu tạo ra các ý niệm khác biệt và hợp tác với thức thứ bảy hoặc căn thức để tạo thành nghiệp nhân. Một nghiệp nhân có thể mang lại kết quả ngay lập tức hoặc có thể xảy ra trong tương lai. Một hành động có thể đem lại kết quả trong cuộc đời này hoặc có thể chờ đến kiếp sau. Tuy nhiên, mọi hành động đều có hậu quả tương ứng.
Ăn đậu khi trồng đậu, ăn dưa khi trồng dưa. Không thể trồng đậu mà lại thu hoạch quả dưa. Những hành động trong kiếp này có thể được lưu trữ trong thức thứ tám hoặc tàng thức và có tác động trong kiếp sau.
Từ một cuộc sống sang cuộc sống khác, chỉ có sinh, hoặc chết, được lưu trữ trong tiềm thức.
Thứ tám chính thức này chứa đựng tất cả những kết quả của sự cố gắng và chúng tiếp tục theo sát từng cá nhân như bóng đèn, từ kiếp này sang kiếp khác.
Theo quan niệm của Phật giáo, sự tồn tại của con người được hình thành từ ba yếu tố: sinh lực, nhiệt độ và ý thức tiềm tàng. Sinh lực là nguồn năng lượng duy trì cuộc sống, nhiệt độ là sự biến đổi của sinh lực tạo ra năng lượng, và ý thức tiềm tàng ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người theo quy luật Nhân quả. Khi sinh lực dần cạn kiệt, con người sẽ trở nên già yếu và qua đời. Khi chết, nhiệt độ mất đi và cuối cùng là ý thức tiềm tàng. Ý thức này sẽ dẫn dắt con người vào một cuộc sống mới trong kiếp sau.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người tạo ra những kết quả tốt hoặc xấu thông qua hành động, lời nói và ý nghĩ. Những hậu quả của những hành động này được lưu trữ trong tâm trí. Một số hậu quả này không ngừng hoạt động và ảnh hưởng đến bảy ý thức, tạo nên tính cách, năng khiếu và thói quen của mỗi cá nhân. Mỗi hành động (kết quả của nghiệp nhân) đều tạo ra những phản ứng (kết quả của nghiệp quả).
Tuy nhiên, có những chủng tử tiềm ẩn trong tiềm thức không tức thì phát động, mà chờ đến thời điểm thuận tiện khác để con người tiếp tục trải qua các kiếp sống khác nhau. Khi có đủ duyên, những chủng tử này sẽ phát động theo luật Nhân quả dưới một hình thức khác. Thể xác có thể là con người, hoặc cũng có thể là một con vật do sự dẫn dắt của nghiệp lực.
Theo quan điểm của Phật giáo, cuộc sống hiện tại không phải là cuộc sống đầu tiên hay cuối cùng của chúng ta. Chúng ta đã trải qua hàng trăm, hàng triệu cuộc sống trước đây và sẽ có vô số cuộc sống tiếp theo. Cuộc sống của con người có giới hạn, chỉ kéo dài tối đa là tám chục hoặc một trăm năm, trong khi ý thức không bao giờ kết thúc. Ý thức liên tục tồn tại và đó chính là vòng luân hồi vô tận mà Đức Phật đã giảng dạy.
Tất nhiên, những người cao cả như vậy khác biệt, bởi vì họ đã thoát khỏi sự áp đặt của vận mệnh. Họ đã hiểu cách tu hành để kết thúc chu kỳ sinh tử luân hồi, và đó là mục đích cuối cùng mà Đức Phật đã nhận thức và truyền bá cho con người. Nhiệm vụ của Phật giáo là thoát khỏi sự áp đặt của chu kỳ Luân hồi.
Giáo sư Yeh tiếp tục đặt câu hỏi để làm rõ hơn nữa những chia sẻ của Hòa thượng Thánh Nghiêm: – Bạch Hòa thượng, vậy làm thế nào để giải quyết những ảnh hưởng này? Hòa thượng Thánh Nghiêm trả lời: – Nếu ta biết cách chuyển đổi thức thứ tám ( A lại da thức ), biến nó thành trí thì ta sẽ vượt qua sự kiềm chế của ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự tu luyện kỹ càng và chỉ có một cách duy nhất. Tất nhiên, có nhiều phương pháp tu luyện, mỗi người tu theo Thiền, Tịnh, Mật hoặc các phương pháp khác tùy thuộc vào khả năng của mỗi người.
Giáo sư Yeh tiếp tục hỏi: – Hòa thượng đã trình bày rất chi tiết về Nghiệp, Nhân quả và vòng Luân hồi, nhưng với tư cách là một nhà khoa học, ông nghĩ sao về vấn đề này, thưa phi hành gia Mitchell? Phi hành gia Mitchell trả lời: – Trên góc độ khoa học, chúng tôi không có lời giải thích rõ ràng về Nghiệp như Hòa thượng Thánh Nghiêm đã trình bày. Chúng tôi chưa có công cụ khoa học nào để giải thích về Nghiệp hay chứng minh rằng có một cuộc sống sau này. Chúng tôi có thể đọc sách và tìm hiểu về quan niệm này, nhưng chúng tôi không thể đo lường hay chứng minh được. Tuy nhiên, tôi đồng ý rằng mọi hành động đều có hậu quả. Vì vậy, khoa học có thể công nhận quan niệm về luật Nhân quả, nhưng việc lưu trữ những lực này ở một nơi nào đó và để chúng phát sinh vào thời điểm khác là điều chúng tôi không thể chứng minh trong phòng thí nghiệm.
Theo quan điểm của tôi, hiện nay vẫn chưa có giải thích khoa học nào cho khái niệm về Luân hồi. Từ xa xưa, mỗi quốc gia và mỗi nền văn minh trên thế giới đều có những niềm tin không thể được giải thích bằng khoa học hiện đại. Việc xác định tính đúng hay sai, giá trị hay không của những quan niệm này là điều không thể được khoa học đánh giá. Chúng chỉ có thể được coi là những niềm tin cá nhân. Mọi người có thể tin theo cách của họ, nhưng không thể chứng minh bằng dữ liệu từ phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, với trải nghiệm cá nhân của mình, tôi đã có một quan điểm khác mà không thể giải thích bằng khoa học, mà chỉ có thể giải thích từ mặt tâm linh.
Theo quan điểm của tôi, đức tin tôn giáo và lý thuyết khoa học có thể tương thích và tạo ra những lý thuyết mới, đó là sức mạnh của kiến thức tiến bộ. Phật giáo cho rằng mọi vật đều được hình thành bởi nhân duyên, từ trạng thái “Không” trở thành trạng thái “Có”. Khoa học cũng đã chứng minh rằng năng lượng có thể biến đổi thành vật chất. Nói cách khác, vật chất là kết quả của sự hợp thành của năng lượng. Vì vậy, chúng ta có thể sử dụng giác quan để nhận thức về vật chất, tôi có thể nhìn thấy, sờ nắm vật chất – như chiếc bàn này hoặc chiếc ghế này.
Năng lượng và vật chất được hiểu là một lĩnh vực khoa học dựa trên trí tuệ của con người. Sự thông minh có thể được xem là khả năng nhận biết dựa trên các dữ kiện. Từ đó, ta có thể tạo ra các định luật khoa học mới hoặc các thuật ngữ mới để giải thích mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Dù khoa học đã tiến bộ rất nhiều, vẫn còn nhiều điều chúng ta cần khám phá. Để hiểu rõ hơn về những điều này, chúng ta cần sử dụng các công cụ khoa học hiện đại, những lý thuyết mới, để mở rộng và phát triển kiến thức của con người. Có thể một ngày nào đó khoa học sẽ có thể giải thích và chứng minh các lý thuyết Phật giáo, và cả hai sẽ bổ sung cho nhau để thúc đẩy sự tiến bộ của con người.
Hòa thượng Thánh Nghiêm nói: – Không đơn giản như vậy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng khoa học và Phật giáo là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Mặc dù có một số điểm tương đồng, nhưng khoa học không thể giải thích được những điều tuyệt vời và sâu sắc của Phật giáo. Vì sao vậy? Bởi vì giáo lý Phật pháp vượt ra ngoài khả năng của ngôn ngữ, vượt ra ngoài sự nhận thức của trí tuệ, vượt ra ngoài sự hiểu biết thông thường mà các giác quan mang lại. Nó là những hoạt động sâu sắc của trí tuệ, không phải dựa trên sự thông minh.
Khoa học thực nghiệm được xây dựng dựa trên giới hạn của giác quan con người. Tuy nhiên, có nhiều thứ mà giác quan không thể nhận biết, ví dụ như âm thanh có tần số quá thấp hoặc quá cao mà chúng ta không thể nghe được.
Mắt chúng ta không thể nhìn thấy một số vật thể vì chúng rung động ở tần số khác. Thậm chí suy nghĩ của chúng ta cũng bị hạn chế vì kiến thức chỉ dựa trên những ký ức tích lũy và những điều đã được truyền dạy. Suy nghĩ của chúng ta có tính chấp nhận một chiều. Giới hạn này dẫn đến những lý thuyết sai lầm và thành kiến hẹp hòi.
Tất nhiên, theo thời gian, một số lý thuyết không chính xác sẽ được điều chỉnh và thay thế bằng những lý thuyết mới. Khoa học có thể hỗ trợ con người trong việc mở rộng kiến thức và vượt qua những thách thức từ thiên nhiên.
Nhưng làm thế nào những thứ hữu hạn có thể giải thích những cái vô hạn được? Khoa học giải thích mọi sự dựa trên ngôn từ, nhưng quan niệm của Phật giáo vượt khỏi giới hạn ngôn từ. Khoa học dựa trên sự suy luận, nhưng quan niệm của Phật giáo vượt khỏi lý luận thông thường, do đó không thể nghĩ, bàn. Nếu không thể diễn tả bằng lý luận hay ngôn từ, làm sao khoa học có thể nghiên cứu những cái vô giới hạn này? Khoa học thực nghiệm dựa trên trí thông minh của bộ óc, nhưng quan niệm của Phật giáo không dựa trên sự thông minh, mà dựa trên trí tuệ Bát nhã (prajna), nên không thể giải thích bằng trí thông minh.
Tuy nhiên, sự tiến bộ của khoa học có thể giúp chúng ta khám phá thêm về những quy luật không thể thay đổi của vũ trụ, mở rộng kiến thức cho mọi người. Ngoài ra, khoa học cũng đóng góp vào sự phát triển của Phật giáo trong tương lai, mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
Giáo sư Yeh tiếp tục hỏi: – Phi hành gia Mitchell, ông đồng ý không? Phi hành gia Mitchell gật đầu: – Tôi đồng ý hoàn toàn với Hòa thượng Thánh Nghiêm. Hôm nay, chúng ta đã thảo luận về nhiều vấn đề quan trọng. Mặc dù vẫn có sự khác biệt trong quan điểm, nhưng điều đó không quan trọng.
Khi tôi ngắm nhìn vẻ đẹp của vũ trụ, tôi nhận thấy sự liên kết giữa bản thân và mọi vật, nhưng không thể dùng toán học để giải thích điều này. Tôi cảm nhận được một điều kỳ diệu đang diễn ra, nhưng không biết cách giải thích nó.
Với tư cách là một nhà khoa học, tôi luôn đặc biệt quan tâm đến những hiện tượng không thể giải thích và luôn khao khát tìm ra một giải pháp thỏa đáng hơn.
Tôi hiểu rằng điều này không phải là điều dễ dàng. Có thể mất nhiều thập kỷ, thậm chí cả trăm năm nữa để có thể giải thích, hoặc có thể không bao giờ có thể giải thích được.
Tuy nhiên, tôi muốn đặt ra những câu hỏi và khám phá vấn đề về mối liên hệ giữa khoa học và trải nghiệm tâm linh, nhằm khuyến khích các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu trong tương lai.
Tôi nhận thức về tầm quan trọng của sự chết, tái sinh và nghiệp lực và cho rằng chúng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Tôi tin rằng những khái niệm này vẫn còn là những ranh giới mà khoa học chưa thể khám phá được, nhưng chúng ta vẫn cần tìm hiểu thêm. Tôi tin rằng theo thời gian, con người sẽ tiến bộ và có thể hiểu sâu hơn về những quan niệm mà ngày nay chỉ được coi là tôn giáo. Nếu chúng ta không học hỏi và nghiên cứu, tôi không biết tương lai của nhân loại sẽ ra sao.
Phi hành gia Mitchell ngạc nhiên: – Khi tôi trở về từ không gian, tôi đã trải qua một trải nghiệm độc đáo và thấy mình đã thay đổi hoàn toàn. Tôi có thể nhìn thấy rõ ràng tình trạng hiện tại của nhân loại. Tôi cảm nhận được sự gia tăng của sự tàn bạo khắp nơi. Tôi cảm nhận được nỗi đau của những nạn nhân chiến tranh như nó xảy ra với chính mình. Tôi nhìn thấy những hậu quả mà con người đang gây ra cho trái đất, như việc tàn phá môi trường mà không có sự thương tiếc. Ngày càng có nhiều sự ích kỷ, tham lam, vô tâm và lạnh lùng trong con người, mà không nhìn thấy những hậu quả mà họ đang gây ra cho bản thân, gia đình và quốc gia của mình. Vì vậy, tôi cho rằng chúng ta cần thay đổi những quan niệm cũ kỹ, vượt qua những tranh chấp vô ích để hướng đến những giá trị cao cả và tốt đẹp hơn. Đáng tiếc, quốc gia của tôi cũng đang đóng góp vào sự ảnh hưởng xấu này. Làm sao chúng ta có thể nói rằng nhân loại đã tiến bộ và trở nên văn minh hơn khi chúng ta không nhận ra những hành động của mình? Giáo sư Yeh tiếp tục đặt câu hỏi: – Bạch Hòa thượng, cuộc sống của chúng ta rất ngắn ngủi. Theo phi hành gia Mitchell, liệu chúng ta có hy vọng vào một tương lai tốt đẹp? Tương lai của nhân loại sẽ ra sao? Hòa thượng Thánh Nghiêm trả lời: – Tôi luôn lạc quan về tương lai của con người. Hiện nay, có hơn bảy tỷ người sống trên trái đất này, và tôi tin rằng nếu vẫn còn những người như phi hành gia Mitchell, những người nhận thức được sự tàn bạo, thù hận, ích kỷ và tham lam, và cố gắng thay đổi, chúng ta có thể tạo ra một tương lai tốt đẹp.
Nuôi dưỡng lòng từ bi và hướng đến chân thiện mỹ, họ có thể tạo ra những tác động tích cực lên những người xung quanh.
Miễn còn niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng, tương lai đó sẽ trở thành hiện thực. Nếu chúng ta chìm đắm trong tuyệt vọng và không quan tâm đến những gì xảy ra, thì thật đáng tiếc.
Tại sao tôi không cảm thấy bi quan? Vì không lâu trước đây, tôi đã đọc một cuốn sách khoa học nói về thuyết Hỗn độn. Trong cuốn sách đó, tác giả, một nhà khoa học, đã dùng một ví dụ về một cánh bướm nhỏ rung động tại khu rừng xứ Brazil, nhưng lại có thể gây ra một trận cuồng phong lớn ở Texas. Một sự việc nhỏ bé nhưng có thể tạo ra những tác động lớn không ngờ.
Tình trạng hiện nay có thể được giải thích bằng cách này. Nếu ai đó có ý thức và thực hiện những hành động tốt, dù nhỏ nhặt, họ có thể tạo ra những tác động tích cực, thay đổi những người xung quanh. Nếu nhiều người cùng đóng góp vào những hành động tốt, thì toàn cầu sẽ thay đổi.
Hòa thượng Thánh Nghiêm quay mặt về phía các sinh viên ngồi nghe và nhấn mạnh rằng: – Hiện tại, hầu hết mọi người đều bận rộn với cuộc sống hàng ngày nên họ không nhận thức được hệ quả của hành động, lời nói và tư tưởng của mình.
Họ tiếp tục xây dựng sự nghiệp cho bản thân và cho những người xung quanh. Tuy nhiên, vẫn có những người nhận thức được tình trạng khủng hoảng đang diễn ra và không ngừng kêu gọi mọi người tỉnh thức, tránh những hành vi ích kỷ, tham lam, thù hận và thay vào đó, hướng tới những việc làm tốt đẹp. Chỉ cần một hay hai người khởi xướng làm điều tốt cũng có thể ảnh hưởng đến những người khác, giống như phi hành gia Mitchell đã làm. Tôi hy vọng các giáo sư và sinh viên tham dự buổi nói chuyện hôm nay sẽ nhận thức rõ hơn về tác động của hành động của mình và nhìn xa hơn, như phi hành gia Mitchell đang cố gắng để chấm dứt những tranh chấp thường tình, xu hướng ích kỷ và tham lam hiện tại, từ đó tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn.
Phi hành gia Mitchell đã bày tỏ: – Tôi hoàn toàn đồng ý với những suy nghĩ của Hòa thượng Thánh Nghiêm. Đôi khi tôi cũng có tâm trạng bi quan, nhưng tôi không muốn.
Như vậy .
Giáo sư Yeh kết thúc buổi gặp gỡ bằng lời nói: – Hôm nay chúng ta đã có một cuộc trò chuyện thú vị và hữu ích, nhưng chúng ta không thể tiếp tục vì Hòa thượng Thánh Nghiêm cần quay trở lại chùa để chuẩn bị cho khóa lễ. Thay mặt ban tổ chức, tôi xin cảm ơn Hòa thượng Thánh Nghiêm và phi hành gia Edgar Mitchell, hy vọng trong tương lai chúng ta sẽ có thêm những cuộc trò chuyện như thế này.
Khi Hòa thượng Thánh Nghiêm kết thúc bài giảng, một số sinh viên đã đến xin chụp ảnh kỷ niệm với phi hành gia Mitchell. Trong khi đó, tôi và Thomas, người bạn của Mitchell, vẫn ngồi yên dưới hàng ghế khán giả. Trong suốt buổi nói chuyện, Mitchell đã giữ im lặng, nhưng bất ngờ Thomas quay sang hỏi tôi: “Bạn nghĩ sao về buổi nói chuyện này?” Tôi trả lời rằng tôi rất quan tâm khi nghe Hòa thượng Thánh Nghiêm giải thích về mối quan hệ giữa khoa học và Phật giáo, cũng như nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai lĩnh vực này.
Ông Thomas gật đầu: – Nhưng ông nghĩ sao về vòng Luân hồi và luật Nhân quả? Tôi đáp: – Tôi hoàn toàn tin tưởng luật Nhân quả và Luân hồi, gieo gì gặp đấy. Tất nhiên, đối với những người chưa quen với quan niệm này, có thể đây là một điều khó tin, đặc biệt là những người theo hướng khoa học hoặc luôn đòi hỏi có bằng chứng rõ ràng.
Ông Thomas tiếp tục đặt câu hỏi: – Anh có tin rằng con người có linh hồn không? Sau khi qua đời, linh hồn này có thể nhập vào một thể xác khác và tiếp tục sống không? Lần đầu tiên tôi thấy ông doanh nhân, người luôn giữ thái độ im lặng và trầm tĩnh, lại chịu nói nhiều như vậy. Chắc chắn đây là một chủ đề mà ông quan tâm.
Tôi giải thích rằng:
Linh hồn chỉ là một từ thông thường để gọi một thực thể tồn tại sau khi cơ thể chết đi. Hòa thượng Thánh Nghiêm đã giải thích rằng theo quan niệm Phật giáo, sau khi chết, chỉ có tàng thức (A lại da thức) tồn tại, đó là một kho chứa mọi loại hạt giống (chủng tử), bao gồm cả điều tốt và xấu, mà chính người đó đã gieo.
Ông Thomas tiếp tục đặt câu hỏi khiến tôi ngạc nhiên: “Theo anh, linh hồn và tàng thức khác nhau như thế nào?” Đây là một câu hỏi khó để giải thích, tôi trả lời ngắn gọn: “Linh hồn là một thực thể bất biến, di chuyển từ kiếp này sang kiếp khác, tương tự như một người du lịch qua thời gian, qua nhiều cuộc sống. Trong khi đó, tàng thức là một thực thể sống động, luôn thay đổi, là sự kết hợp của nhiều trải nghiệm trong nhiều cuộc sống.”
Ông Thomas gật đầu đầy hứng thú: – Theo anh giải thích về linh hồn, sau khi qua đời, con người sẽ được đầu thai thành một người khác trong kiếp sau. Dù hành động của họ có như thế nào đi nữa, họ vẫn sẽ được tái sinh thành người, bởi vì linh hồn là một thứ bất diệt, không thay đổi. Tuy nhiên, theo quan niệm Phật giáo về tâm thức, tùy thuộc vào hoàn cảnh và duyên số, sau khi qua đời, con người có thể được tái sinh thành người hoặc thành vật.
Ý kiến của bạn về vấn đề này là gì? Tôi muốn giải thích rằng, dù tôi tin rằng ông Thomas có thể đã biết: – Đúng vậy, sau khi chết, một người có thể được tái sinh thành người hoặc súc vật, tùy thuộc vào duyên số của họ. Hơn nữa, họ cũng có thể trở thành ma, quỷ hoặc bị đày xuống địa ngục. Do đó, vòng Luân hồi không chỉ giới hạn trong thế giới của con người mà còn tồn tại trong các cõi khác.
Ông Thomas mỉm cười và chia sẻ: – Rất thú vị! Những điều anh nói làm tôi bất ngờ và cảm thấy được đồng cảm. Có lẽ chúng ta nên gặp nhau nhiều hơn để thảo luận và chia sẻ về đề tài này. Tôi có những trải nghiệm riêng và muốn tìm hiểu sâu hơn về kiến thức Phật pháp.
Về chủ đề Luân hồi, Nhân quả và duyên nghiệp, tiếc thay giáo sư Yeh và ông Mitchell đã hoàn thành công việc. Tôi và ông Mitchell phải quay trở lại khách sạn để sắp xếp việc đi đến sân bay để kịp chuyến bay trở về New York vào chiều nay.
Chúng tôi chia tay nhau, ông Thomas tự nguyện đưa cho tôi một tấm danh thiếp và mời tôi ghé qua New York nếu có cơ hội, để ông biết. Tôi cũng lịch sự đáp lại và hứa sẽ liên lạc với ông ấy để thảo luận thêm về chủ đề thú vị này.
Do bận rộn với nhiều công việc, tôi đã hoàn toàn quên cuộc gặp gỡ và lời hứa này trong suốt nhiều năm.
Sau năm năm, vào năm 2013, tôi được mời tham dự một buổi hội thảo khoa học ở New York. Sau đó, tôi quyết định đi ăn tối tại một nhà hàng gần khách sạn. Khi tôi vừa bước vào nhà hàng và đang chờ đợi để được đưa đến bàn ăn, tôi bất ngờ nghe thấy tiếng gọi tên mình và nhìn thấy ông Thomas và vợ ngồi tại một bàn gần cửa sổ. Ông Thomas rất vui mừng khi thấy tôi và lịch sự mời tôi ngồi cùng với vợ chồng ông.
Ông Thomas bất ngờ khi gặp tôi ở New York và tỏ ra tiếc nuối vì tôi không báo trước. Chúng tôi đã có lời hẹn từ lâu nhưng chưa có dịp nói hết câu chuyện từ khi gặp nhau ở Đài Bắc năm năm trước. Ông hỏi tôi có muốn tiếp tục thảo luận về đề tài này không. Tôi thú nhận rằng tôi chưa nhớ lại câu chuyện và cũng ngại vì sự hiện diện của vợ ông, Angie. Ông Thomas nhẹ nhàng trách móc tôi rằng chúng ta cần nhiều thời gian hơn để tiếp tục đề tài này. Ông đề nghị tôi ghé qua nhà ông để tiếp tục câu chuyện. Tôi không thể từ chối một lời mời chân thành như vậy, nên đã đồng ý ghé thăm ông vào hôm sau. Ông Thomas nhắc nhở tôi.
Anh hãy cung cấp cho tôi địa chỉ khách sạn và thời gian anh có thể đi. Ngày mai, tôi sẽ sắp xếp người đến đón anh.
Tối hôm sau, tôi ghé thăm nhà riêng của ông. Chúng tôi tiếp tục trò chuyện về chủ đề Luân hồi và Nhân quả. Cuộc trò chuyện đặc biệt này kéo dài suốt nhiều giờ và tôi nhận ra rằng ông Thomas có sự quan tâm đặc biệt đến Luân hồi.
Hôm đó, ông Thomas hỏi: – Anh nói rằng anh tin vào sự Luân hồi, Nhân quả nhưng đó chỉ là một niềm tin tôn giáo hay còn là điều gì khác nữa? Là một nhà khoa học quan tâm nhiều đến triết học, đến nhiều tôn giáo, nhất là Phật giáo, ngoài niềm tin ra, anh phải có bằng chứng nào đó chứ? Tôi đáp: – Là một nhà khoa học từng nghiên cứu nhiều về Phật giáo, tôi không chỉ đơn thuần tin vào giáo lý của Đức Phật mà đã trực tiếp trải nghiệm, quan sát, kiểm chứng một giai đoạn dài. Tôi đã suy ngẫm, phân tích một cách khoa học về những lời dạy của Ngài trong khá nhiều năm và thấy nó rất hợp lý và giải thích được vì sao nó trở thành một chân lý. Do đó, đây không chỉ là một niềm tin thuần túy, dù ngày nay đạo Phật đã có nhiều biến tướng không còn nguyên bản – ngay ở những nước Á Đông – mà không ít người đã nhận ra nhiều người không tốt đã dùng đạo Phật, chùa chiền, tín ngưỡng Phật giáo để trục lợi và phục vụ cho mục đích, lợi ích riêng của họ. Trở lại với bằng chứng Luân hồi, đã có rất nhiều bằng chứng về sự tái sinh trong các kiếp sống như trường hợp của Edgar Cayce, một nông dân tại tiểu bang Kentucky với học vấn chưa quá bậc trung học. Chỉ qua một cơn bạo bệnh mà ông ấy đã nhớ lại kiếp sống trước kia, kiếp sống mà ông là một thầy thuốc. Không những thế, từ đó ông có thể chẩn bệnh, chữa bệnh chính xác hơn những y bác sĩ đương thời. Ông đã để lại nhiều tài liệu y học giá trị mà hiện nay nhiều trường đại học y vẫn đang nghiên cứu và áp dụng .
Ông Thomas nở nụ cười và đồng ý bằng cách gật đầu: – Tôi đã đọc qua một số tài liệu về trường hợp của Edgar Cayce. Đây thực sự là một trường hợp đặc biệt về Luân hồi, nhưng có lẽ còn nhiều điều chưa được khám phá.
Có những trường hợp khác nữa chứ? Tôi tiếp tục nói: – Nếu không hoàn toàn tin tưởng vào vòng Luân hồi thì có thể giải thích sao về trường hợp của những đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt mà chúng ta thường gọi là thần đồng? Chắc ông cũng biết Mozart bắt đầu soạn nhạc từ khi mới lên bốn tuổi và chủ trì các buổi hòa tấu từ khi lên tám tuổi. Dù còn rất nhỏ nhưng Mozart đã có thể soạn nhạc cho hàng chục loại nhạc khí khác nhau chỉ trong vài ngày mà không hề qua một lớp dạy nhạc nào. Beethoven cũng vậy, ông bắt đầu soạn nhạc từ khi mới lên ba tuổi và có thể sử dụng hàng chục loại nhạc khí khác nhau. Ai đã dạy những đứa trẻ này như thế nếu không phải họ đã trải qua rất nhiều kiếp sống để học và am hiểu sâu về âm nhạc? Hẳn ông cũng biết Galileo vừa là một nhà toán học, vừa là một nhà thiên văn học đã đưa ra bằng chứng về quỹ đạo của các hành tinh từ khi còn bé. Ông đã vẽ bản đồ vũ trụ với những hành tinh mà khi đó kính viễn vọng chưa được phát minh ra. Ngay cả những nhà khoa học thông thái thời đó cũng chưa biết về những hành tinh này. Ai đã dạy cho một đứa bé chưa đầy mười tuổi, chưa học qua bậc tiểu học những kiến thức tuyệt vời như thế, nếu không phải ông đã từng được sinh ra trong những kiếp sống ở những nền văn minh đã biến mất trên bề mặt địa cầu? Ông nghĩ sao về một đứa bé mới lên năm tuổi như Blaise Pascal có thể giải những bài toán cực kỳ phức tạp, kể cả những phương trình toán làm nhức đầu những bậc thầy về toán khi đó? Khoa học giải thích trường hợp này như thế nào nếu chúng ta không tin rằng con người đã trải qua nhiều kiếp sống và đã từng được dạy bảo, học hỏi trong quá khứ? Ông Thomas hỏi: – Anh nghĩ rằng những người này có thể hồi tưởng lại kiến thức mà họ đã trải qua, đã học được ở kiếp trước hay sao? Tại sao những người khác lại không nhớ được gì? Tôi đáp:
Nếu một người được đào tạo tận tâm trong một lĩnh vực cụ thể và tiếp tục theo đuổi lĩnh vực đó qua nhiều kiếp sống, nhờ vào những mối quan hệ đặc biệt, họ có thể tái hiện những kiến thức tiềm thức này.
Ví dụ như nhà văn John Stuart Mill có thể nói, viết thành thạo tiếng Hy Lạp và tiếng Latin khi mới lên bốn tuổi mặc dù ông sinh ra ở nước Anh và cha mẹ ông chỉ biết nói tiếng Anh. Hơn nữa, khi ông mới lên tám tuổi, ông đã viết một cuốn sách dày tám trăm trang về lịch sử triều đại các vua chúa La Mã với những niên đại, năm tháng rõ ràng đến từng chi tiết, đến mức các nhà sử học phải ngạc nhiên về độ chính xác của nó.
Khám phá sâu hơn trong lĩnh vực văn chương, chúng ta sẽ khám phá rằng từ thời cổ đại, nhà văn vĩ đại Voltaire đã thuộc lòng những bài luận tuyệt vời của các nhà văn tài ba sống trong thế kỷ trước. Theo quan điểm của Phật giáo, tất cả những gì chúng ta làm và suy nghĩ đều được lưu giữ trong tiềm thức dưới dạng những kết quả của những hành động trước đó. Khi những kết quả này được hiện thực hóa, chúng đến từ những duyên cố đặc biệt, vượt xa khả năng hiểu biết của chúng ta.
Có lẽ ông cũng nhận thấy, trong cùng một gia đình, cùng cha mẹ, được nuôi dưỡng trong cùng hoàn cảnh như nhau, được giáo dục như nhau nhưng tại sao anh chị em, mỗi người một tính cách, không ai giống ai. Có người yêu thích âm nhạc, có người đam mê khoa học, có người say mê thể thao. Có người chỉ cần nghe giảng bài đã hiểu ngay, trong khi người khác học mãi cũng không hiểu gì cả.
Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Nếu không áp dụng quan niệm về nhân quả, thì làm sao chúng ta có thể giải thích điều này? Có phải tính cách và con người của chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi quá khứ, bởi những hạt giống đã được gieo trồng? Một người thợ giỏi là vì đã từng làm việc đó trong quá khứ. Một học sinh thông minh là vì đã học qua môn đó từ trước. Điều này có thể giải thích tại sao có người giỏi toán trong khi người khác lại có tài về âm nhạc.
Chúng tôi tiếp tục thảo luận về chủ đề này đến khuya và cảm thấy hết sức hứng thú vì có nhiều ý tưởng đồng điệu. Lúc đó, tôi thực sự bất ngờ khi biết rằng doanh nhân này có một kiến thức vô cùng đa dạng và sâu rộng.
Ông rất quan tâm đặc biệt đến luật Luân hồi và tỏ ra rất cởi mở, khác hoàn toàn so với lần gặp đầu tiên.
Ông Thomas mời tôi ghé thăm ông mỗi khi tôi đến New York. Lần này tôi đã đồng ý và hứa sẽ ghé thăm ông để tiếp tục trò chuyện về đề tài này. Từ đó, chúng tôi trở thành bạn thân.
Sau nhiều năm, tôi mới hiểu tại sao ông Thomas quan tâm đến đề tài này. Ông đã trải qua những trải nghiệm đặc biệt về Luân hồi và đã chia sẻ với tôi về một trường hợp đặc biệt.
Vào một ngày cuối thu năm 2016, tôi ghé thăm ông Thomas tại căn nhà nghỉ dưỡng của ông ở Colorado. Chỉ có hai chúng tôi trong ngày đó, cuộc trò chuyện bắt đầu với những phát minh khoa học công nghệ hiện đại. Ông hỏi tôi: “Là một nhà khoa học chuyên nghiên cứu về công nghệ, bạn nghĩ gì về những phát minh công nghệ hiện nay?” Tôi đáp: “Ngày nay, khoa học đã phát triển vượt bậc. Công nghệ phát triển nhanh chóng và vô cùng đáng kinh ngạc. Một sản phẩm mới chỉ được phát minh ra đã có thể trở nên lỗi thời ngay sau đó khi có sản phẩm mới hơn xuất hiện. Một lý thuyết mới chỉ mới được đề xuất đã có những lý thuyết khác được đưa ra, thay đổi lý thuyết đó.”
Ông Thomas gật đầu biểu hiện sự không đồng ý: – Nếu công nghệ phát triển nhanh như bạn nói thì chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng tác động của nó trong thời đại này, và tự đặt câu hỏi liệu chúng ta có đi quá xa hay không. Mặc dù khoa học đã đạt được những tiến bộ đáng kể và điều này được coi là tích cực, nhưng chúng ta cũng cần cẩn trọng đối với tác động của nó trong tương lai. Quá trình lịch sử đôi khi lặp lại những sai lầm quá khứ mà chúng ta không nhận thức hoặc chưa học được bài học cần thiết.
Tại sao anh nghĩ như vậy? Ông Thomas mỉm cười đáp lại.
Bạn là một nhà nghiên cứu công nghệ, nhưng đã từng nghĩ rằng sự tiến bộ có thể mang đến những hệ quả tai họa không ngờ? Ví dụ như việc phát minh ra súng đã gây ra những cuộc chiến tranh khốc liệt. Sự tiến bộ trong lĩnh vực nguyên tử đã dẫn đến thảm họa chiến tranh hạt nhân.
Hiện tại, ý kiến của bạn về các sản phẩm như iPhone mà Apple đang quảng cáo khắp nơi là gì? Tôi ngạc nhiên với câu hỏi của ông Thomas nhưng tôi cũng lấy điện thoại iPhone ra khỏi túi của mình và nói: – Theo tôi, đây là một phát minh tuyệt vời. Nhìn này, nó không chỉ là điện thoại, mà còn là máy nghe nhạc, máy ảnh, máy tính có thể giúp chúng ta tìm kiếm tin tức trong vài giây. Tất cả được gọn gàng trong một thiết bị nhỏ gọn có thể đặt trong túi áo. Nếu nó không phải là một phát minh tuyệt vời thì còn gì nữa đây? Ông Thomas lắc đầu: – Về mặt công nghệ, đó là một phát minh tuyệt vời, nhưng chúng ta cũng cần xem xét hệ quả của nó. Theo tôi, những thứ này có thể là một tai họa cho con người. Có thể bạn không để ý đến điều đó, nhưng hãy nhìn vào các em nhỏ xem. Thay vì tập trung vào việc học, chúng chỉ biết theo dõi mọi thứ qua chiếc iPhone và bị “mê hoặc” trong một “thế giới ảo” trên màn hình nhỏ này. Các thanh niên ngày nay đều bị một loại “sức mạnh ma thuật” hấp dẫn, làm mất đi sự sáng tạo và trí tuệ của họ. Trong tương lai, công nghệ sẽ gây thiệt hại cho con người vì chúng ta sẽ mất đi nhiều thứ mà thế hệ trước đã xây dựng. Công nghệ là một con dao hai lưỡi, nhưng đa số không hiểu rõ điều này. Họ coi đó là văn minh, là tiến bộ mà không biết rằng thế hệ tương lai sẽ phải trả giá rất đắt cho những phát minh mà họ coi là kỳ diệu này.
Các lời của ông Thomas đã khiến tôi nghĩ đến việc học không còn là ưu tiên của sinh viên ngày nay.
Trong lớp học, nhiều người bị phân tâm bởi tin tức trên chiếc iPhone, không tập trung vào nội dung giảng dạy.
Tôi thường phải nhắc nhở học sinh hãy tập trung lắng nghe bài giảng, nhưng chỉ sau vài phút, một số học sinh lại bí mật lấy iPhone ra, truy cập Facebook và gửi tin nhắn cho nhau.
Ông Thomas tiếp tục: – Còn tệ hơn nữa là những trò chơi điện tử. Những thứ này đã dạy cho trẻ em những hành vi kỳ lạ, khác thường, khó tưởng tượng. Chúng học cách giết người, cướp đoạt trong những cuộc phiêu lưu ảo, rồi sau đó không thể phân biệt thực và ảo. Do đó, chúng mất khả năng phân biệt đúng và sai. Từ trẻ em đến người lớn, ai cũng mê mải với những điều nguy hại mà họ chỉ coi là trò chơi vô hại. Không ai hiểu rằng công nghệ mang lại lợi ích nhưng cũng tiềm ẩn nguy hiểm. Trẻ em không biết phân biệt, không được dạy cẩn thận nên dễ dàng trở thành nạn nhân của “ma lực” này. Họ dán tai, dán mắt vào điện thoại và quên mọi thứ xung quanh, chỉ sống trong thế giới ảo. Có trẻ em quên ăn, quên ngủ và sống trong thế giới ảo này, không trưởng thành, không có trách nhiệm với xã hội, trở nên vô cảm, vì tâm trí của họ đã bị mê hoặc.
Mặc dù tôi đồng ý với ý kiến của ông Thomas, tôi muốn bổ sung vài điểm để bào chữa: – Khoa học công nghệ đã có nhiều đóng góp hữu ích cho con người. Chúng ta nên có tư duy mở rộng đối với các phát minh trong nhiều lĩnh vực, thay vì chỉ trích chiếc iPhone.
Ông Thomas cười và nói: “Khoa học công nghệ hiện nay cần được bổ sung thêm vì còn nhiều thiếu sót. Không thể dạy khoa học kỹ thuật mà không nhắc đến đạo đức và trách nhiệm của những người làm việc trong lĩnh vực này. Khoa học không thể thiếu lương tâm, công nghệ không thể thiếu trách nhiệm, nếu không sẽ gây ra hậu quả khủng khiếp cho nhân loại trong tương lai.”
Ông Thomas ngạc nhiên: – Với tốc độ phát triển vượt bậc, thị trường tiêu thụ khổng lồ và thu nhập cực kỳ cao, không thể ngăn chặn được sự phát triển của những sản phẩm này, dẫn đến những sai lầm.
Việc sửa đổi khó khăn. Tôi không chỉ trích khoa học hoặc công nghệ, tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng chúng ta cần phát triển khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu và sử dụng trí tuệ để hiểu rõ những hậu quả mà chúng ta có thể tránh được.
Ông Thomas im lặng một lúc để nhớ về một điều gì đó, sau đó tiếp tục nói: – Anh có biết rằng điều này đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ không? Vì thiếu ý thức, con người đã để cho những sản phẩm có “ma lực” này lấy đi toàn bộ năng lượng của họ. Đa số mọi người trở nên thụ động, quên đi mọi thứ xung quanh. Họ không còn sống tỉnh táo nữa mà trở thành những cỗ máy hoàn toàn vô cảm trước tình hình xã hội. Họ chỉ quan tâm đến bản thân và trở nên ích kỷ, tham lam, tàn bạo như loài vật. Theo thời gian, nhân loại sẽ mất đi khả năng phán đoán và hiểu biết, vì những thứ được gọi là “công nghệ” này sẽ kết nối vào tâm trí của họ, làm tê liệt cơ quan này, khiến con người không còn khả năng suy nghĩ mà trở thành một loại người sống không sống, chết không chết, hoàn toàn tuân theo sự hướng dẫn của cái “ma lực” đó.
Nếu không nhận thức rõ từ bây giờ, sự thông minh của chúng ta sẽ dần bị thay thế bởi những hiện tượng tâm thức “máy móc” mà chúng ta cho là tiến bộ. Chúng ta cần phân biệt giữa bộ óc thông minh và trí tuệ nội tại. Thông minh mà thiếu trí tuệ sẽ dẫn đến những nhận xét sai lầm. Khi đó, con người sẽ trở thành những cỗ máy, những “xác sống”. Bộ óc không biết suy nghĩ sẽ dễ dàng bị kiểm soát để làm những việc phi nhân tính. Trong tương lai, nếu không biết sử dụng bộ óc để phân biệt đúng sai, con người sẽ trở thành những cỗ máy chỉ biết làm những gì được sai khiến.
Ông Thomas dừng lại, để tôi suy nghĩ về những gì ông nói, sau đó tiếp tục bằng những lời xúc động: “Là một nhà khoa học công nghệ, bạn có thể nghĩ rằng tôi không hiểu về sự tiến bộ của khoa học ngày nay, nhưng bạn có biết rằng tôi đã từng sống trong hoàn cảnh tương tự hàng ngàn năm trước không? Tôi đã trải qua nhiều trải nghiệm mà ngày nay chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra, và tôi hiểu rõ hậu quả của chúng.”
Hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học, chúng ta đã biết rằng có thể ghép tế bào động vật vào cơ thể con người hoặc đặt các thiết bị “trí tuệ nhân tạo” vào cơ thể để phát triển những khả năng đặc biệt mà người thường không thể có. Chúng ta có thể coi những người như vậy là “nửa người, nửa siêu nhân” (cyborg). Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức về hệ quả của việc này. Hiện nay, thế giới đang trải qua giai đoạn hỗn loạn và xáo trộn, và mỗi quốc gia, cũng như mỗi cá nhân, đang phải đối mặt với những hậu quả do chính họ đã gây ra trong quá khứ.
Mỗi cá nhân có “sự nghiệp” riêng của mình, trong khi đó mỗi quốc gia lại có “sự phát triển chung” mà tất cả người dân sống trong đó phải đóng góp. Chu kỳ “hình thành, phát triển, suy thoái, tàn lụi” là điều không thể tránh khỏi đối với mỗi người và mỗi quốc gia. Điều tương tự cũng áp dụng cho trái đất, nó cũng trải qua quá trình hình thành, phát triển, suy thoái và tàn lụi. Tuy nhiên, cuộc sống của con người ngắn ngủi hơn, trong khi sự thay đổi của một quốc gia hay một nền văn minh kéo dài lâu hơn, điều này không được nhiều người nhận thức. Nếu nhìn vào lịch sử, ta có thể thấy những nền văn minh từng phát triển rất mạnh như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, và gần đây là Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Đức, Ý đều đang trải qua giai đoạn suy thoái, và chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Tôi im lặng một thời gian dài. Tôi không ngờ ông Thomas, người ít nói, lại có những nhận xét sâu sắc như vậy. Điều ông nói cũng chính là điều tôi đã suy nghĩ từ lâu.
Trong quá trình nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy (machine learning), tôi đã bị choáng ngợp khi chứng kiến những con robot thông minh trong phòng thí nghiệm tại Đại học Carnegie Mellon, nơi tôi làm việc, thực hiện những nhiệm vụ mà chúng tôi không ngờ đến.
Khi cài đặt thuật toán học máy phức tạp vào các con robot để chơi cờ vua với nhau, chúng đã có khả năng học và tính toán hàng trăm nước đi để đánh bại đối thủ. Điều bất ngờ là chúng, những con robot “không có ý thức”, có khả năng tìm cách lừa đối thủ để giành chiến thắng – không phải bằng cách đoán trước nước đi của đối thủ, mà là bằng cách lừa đối phương và đây là điều đáng chú ý.
Chúng tôi không thực hiện việc lập trình cho chúng. Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo đã vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta.
Tôi đồng ý và gật đầu: – Đúng vậy, phần lớn chúng tôi, những nhà khoa học, đang mải mê với những ý tưởng tiến bộ của khoa học mà không để ý đến những hậu quả trong tương lai. Hiện nay, một số phụ huynh đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề nghiện Internet và video game của trẻ em; và một số nhà khoa học cũng đang chú ý đến sự phát triển quá nhanh của trí thông minh nhân tạo, nhưng chưa có giải pháp hợp lý cho tình huống này. Nhưng ông đã nói rằng ông đã trải qua kinh nghiệm này trong quá khứ, vậy câu chuyện là gì? Ông Thomas suy nghĩ một lúc rồi trả lời: – Thật sự, tôi không muốn nói ra điều này. Nhưng trước đây, tôi đã rất ấn tượng khi nghe Hòa thượng Thánh Nghiêm nói rằng chỉ cần một số người có ý thức làm những việc thiện lành, dù là nhỏ nhặt, họ có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực và gây ra những thay đổi lớn. Nếu một cánh bướm nhỏ có thể gây ra một trận cuồng phong, thì việc chia sẻ những trải nghiệm của tôi qua các kiếp sống cũng có thể giúp nhiều người hiểu rõ hơn về những quy luật không thể thay đổi trong vũ trụ, và có thể họ sẽ nhận ra điều gì đó để thay đổi. Mặc dù chúng ta đã thảo luận nhiều về Luân hồi và Nhân quả, nhưng tôi chưa nói rõ vì sao tôi quan tâm đến vấn đề này. Trong buổi nói chuyện hôm nay, tôi có thể chia sẻ với anh về những kiếp sống của tôi trong quá khứ.
Tôi nhìn ông Thomas một cách im lặng. Ông dừng lại để tôi có thời gian suy nghĩ. Mặc dù tôi ngạc nhiên, nhưng tôi vẫn giữ im lặng, không muốn làm gián đoạn suy nghĩ của ông. Ông Thomas suy tư trong một khoảng thời gian khá lâu, rồi nói: – Những gì tôi chia sẻ chỉ là những trải nghiệm của tôi qua những kiếp sống trước. Tự nhiên, bạn có thể tin hoặc không tin, tùy thuộc vào hiểu biết của bạn.
Trong thế giới khoa học hiện đại, ít ai có thể tin vào những điều kỳ lạ mà ông Thomas đã chia sẻ với tôi vào ngày hôm đó.
Hầu hết mọi người cho rằng đó chỉ là sự tưởng tượng, nên tôi không có ý định chia sẻ câu chuyện được nghe với ai mà chỉ giữ riêng cho mình.
Phi hành gia Edgar Mitchell đã bị chỉ trích khi đề xuất nghiên cứu các hiện tượng tâm linh, quy luật vũ trụ ẩn trong thiên nhiên, sự tồn tại của sinh vật ngoài hành tinh và mối quan hệ giữa vũ trụ và con người. Vậy thì ai sẽ tin vào những câu chuyện về tiền kiếp và luân hồi? Khi tôi trò chuyện với Nguyễn Văn Phước, người sáng lập Công ty Văn hóa Sáng tạo Trí Việt – First News, về những kiến thức tâm linh trong những cuốn sách tôi đã viết lại từ nhiều năm trước, tôi nhắc đến câu chuyện này và anh Phước đề nghị tôi chia sẻ nó với độc giả Việt qua một cuốn sách. Ban đầu, tôi do dự vì đã không viết về những chủ đề này trong nhiều năm. Tôi đã suy nghĩ về việc dừng việc viết, kể cả việc viết về công nghệ. Tuy nhiên, với sự khích lệ và nguồn cảm hứng từ anh Phước, tôi đã liên lạc với ông Thomas để hỏi ý kiến về việc viết một cuốn sách về trải nghiệm tiền kiếp của ông. Ban đầu, tôi nghĩ ông Thomas sẽ không đồng ý vì câu chuyện của ông quá đặc biệt và riêng tư. Nhưng ngạc nhiên thay, ông đã đồng ý, với điều kiện là không tiết lộ tên thật của ông và những người liên quan trong câu chuyện. Ông nói: “Bạn có thể viết và chia sẻ những điều này với bạn bè của bạn, nhưng đừng để tên thật của tôi xuất hiện. Tôi không muốn trở thành đề tài của dư luận.”
Ông Thomas là một doanh nhân nổi tiếng và thành công ở thị trường tài chính New York. Những người làm việc cùng ông, đồng nghiệp và bạn bè của ông đều là những người có tiếng trong xã hội Mỹ và thế giới ngày nay. Tất nhiên, không ai muốn trở thành chủ đề của các tờ báo hoặc trang mạng xã hội đàm tiếu.
Trong suốt những năm vừa qua, tôi đã bay đến New York nhiều lần để gặp ông Thomas và ghi chép về những câu chuyện kỳ lạ về tiền kiếp của ông.
Ông. Chúng tôi trò chuyện một cách nghiêm túc nhưng thân mật và tự nhiên, để ông có thể chia sẻ sâu hơn về những trải nghiệm đời trước của mình. Ban đầu, chúng tôi không tuân theo bất kỳ thứ tự nào, vì đây không phải là cuộc phỏng vấn hay viết hồi ký. Tôi ghi chép tất cả các chi tiết quan trọng và sắp xếp lại thông điệp trong câu chuyện của ông. Tôi cũng liên tục trao đổi với ông trong quá trình viết, để ông có thể đóng góp ý kiến và chỉnh sửa kỹ lưỡng hơn, theo ý muốn của ông.
Sau đó, ông đề nghị rằng chúng ta nên thay đổi vài chi tiết trong đó, viết lại theo thứ tự thời gian, để tạo ra một cuốn sách sống động hơn thay vì chỉ là những đoạn hội thoại liên tục giữa chúng ta. Ông nhấn mạnh rằng đây không phải là một tài liệu nghiên cứu hoặc một cuộc phỏng vấn dài với câu hỏi và trả lời. Sau một thời gian suy nghĩ, ông khẳng định rằng đây sẽ là một cuốn sách đặc biệt!
Tôi đã sắp xếp lại theo thứ tự thời gian, qua các kiếp sống, theo dòng lịch sử và viết “văn học hóa” một số chi tiết, câu chuyện để tạo nên một cuốn sách hấp dẫn, truyền tải những thông điệp quan trọng thay vì chỉ là sự tổng hợp các tư liệu. Tôi hy vọng rằng sau khi đọc xong cuốn sách, các bạn cũng sẽ đồng ý với điều đó và nếu có bất kỳ sai sót nào, xin hãy bỏ qua và thông cảm.
Và sau đây là câu truyện của ông Thomas.
Phần một: Cuộc gặp tại ColoradoTrong lúc tôi đang làm việc, Angie – vợ tôi, bước vào phòng với một tờ quảng cáo trong tay:- Em vừa tìm thấy một căn nhà nghỉ dưỡng đang được rao bán ở Colorado. Nhìn qua hình ảnh, nó trông rất đẹp và phù hợp với ý tưởng của anh. Anh có muốn đi xem không?Tôi nhìn qua tờ quảng cáo một cách vội vã. Thật sự, căn nhà đó rất tuyệt vời, nằm trên một ngọn đồi nhìn ra hồ nước trong xanh, với một khung cảnh xanh mướt và bình yên xung quanh. Tôi đã lâu rồi đã có ý định tìm mua một căn nhà nghỉ dưỡng trên núi ở vùng Colorado, nhưng không muốn sống ở những thành phố đông đúc và đầy du khách như Vail hay Colorado Spring. Tôi chỉ muốn tìm một nơi yên tĩnh, hoang sơ và gần gũi với thiên nhiên.Là chủ của một công ty tài chính lớn đang phát triển, tôi cần một căn nhà nghỉ dưỡng yên tĩnh để có thể thư giãn khi cần thiết. Tôi đã đi xem nhiều căn nhà nghỉ dưỡng ở khắp nơi, từ New England, Maine, đến Florida, Arizona, nhưng không có nơi nào tôi thích bằng Colorado với những dãy núi Rocky cao lớn và uy nghi.
Tôi nói với Angie: – Hiện tại anh đang rất bận rộn, em hãy đi xem trước, nếu thấy thích thì mua.
Em gọi Charles đến đón phi cơ để đi nhanh hơn. Nếu muốn, em có thể mời Andrew hoặc Connie đi cùng để thêm vui.
Charles là người quản gia của gia đình. Andrew và Connie là một cặp vợ chồng trẻ, dù làm dưới sự quản lý của tôi nhưng chúng tôi xem họ như con cái vì chúng tôi không có con riêng.
Angie đùa rằng nếu không có anh, cô sẽ không thể quyết định được. Nếu mua mà không đúng như ý anh, cô không biết phải làm sao. Tôi nhìn tờ quảng cáo với những con số và cười: “Nếu em thấy được thì cứ mua. Giá như vậy thì không có vấn đề gì”.
Angie cũng cười vui vẻ vì thường xuyên là người chi tiêu trong gia đình, tôi ít khi để ý đến. Dù sở hữu một công ty lớn trị giá hàng trăm triệu đô-la, việc chi một vài trăm ngàn đô-la cho căn nhà nghỉ dưỡng không phải là điều tôi phải quá lo lắng.
Sau khi Angie rời khỏi phòng, tôi liền gọi điện cho Charles và yêu cầu anh gọi phi công để thuê một chiếc phi cơ riêng đưa tôi đến Colorado. Tôi nghĩ rằng Angie đã tìm được một căn nhà phù hợp. Nếu cô ấy thấy ưng ý, tôi yêu cầu cô ấy liên hệ ngay với Brian để tiến hành các thủ tục cần thiết.
Brian là một luật sư cá nhân của gia đình, có kỹ năng tốt trong mọi lĩnh vực, bao gồm cả tài chính. Tôi nhận ra từ thái độ của Angie rằng cô ấy đã thích căn nhà. Khi Angie thích một điều gì đó, tôi không có lý do nào để từ chối.
Chiều hôm đó, tôi nhận được cuộc gọi từ Angie: – Anh ơi, căn nhà thật đẹp, đẹp hơn em tưởng. Em rất thích nó. Connie cũng nói rằng đó là một căn nhà tuyệt vời. Nó có đầy đủ tiện nghi và đã được tân trang kỹ lưỡng. Khu vực xung quanh căn nhà rất yên tĩnh. Căn nhà gần nhất cũng khá xa, nên không ai có thể nhìn trộm hoặc làm phiền chúng ta khi nghỉ ngơi. Anh nghĩ sao? Tôi cười và đùa: – Căn nhà tốt như vậy, liệu chúng ta có thể mua được không? Angie cũng cười và trả lời: – Em đã gọi cho Brian để sắp xếp việc mua căn nhà này. Có lẽ mọi thứ sẽ hoàn tất vào tuần sau. Anh có thể qua xem căn nhà này khi nào? Tôi nhìn vào lịch làm việc trên bàn, đầy những cuộc họp, và nói: – Hiện tại tôi rất bận, nhưng sau khi giấy tờ hoàn tất, tôi sẽ đến xem.
Một ngày cuối thu, thời tiết bắt đầu chớm lạnh, Angie không ngừng giục tôi đi xem căn nhà nghỉ dưỡng mới mua. Dù tôi đã từ chối mấy lần vì bận việc. Từ nhiều tuần trước, Angie và Connie đã bay qua đó để sắm sửa và trưng bày đồ đạc cho căn nhà này.
Angie nói rằng vào Giáng sinh năm nay, anh có thể mời bạn bè đến nhà ít ngày. Chúng ta không cần phải đi nghỉ dưỡng ở xa nữa vì căn nhà này có sáu phòng ngủ tiện nghi, đủ cho vợ chồng Andrew, vợ chồng Brian, vợ chồng Charles và cả Andy nữa.
Các cá nhân này đều là những nhân viên mà tôi tin tưởng và đánh giá cao trong suốt nhiều năm qua. Hàng năm, tôi luôn mời họ cùng đi nghỉ dưỡng, để có thời gian nghỉ ngơi và thư giãn, đồng thời cũng có thể thảo luận về kế hoạch công việc cho năm tiếp theo.
Buổi chiều đó, tôi nhận được cuộc gọi từ Andrew thông báo rằng cuộc họp cuối tuần đã bị hủy bỏ vì khách hàng bất ngờ phải đi xa. Andrew đề nghị: – Đây là cơ hội để bạn đi tham quan căn nhà nghỉ dưỡng. Bà Angie đã mong chờ từ lâu. Nếu bạn đồng ý, tôi sẽ gọi cho Charles để chuẩn bị phi cơ cho bạn và bà ấy.
Tôi suy nghĩ một lúc rồi đáp: – Không cần, tôi sẽ tự mình điều khiển máy bay. Tuần trước phi công đã làm việc rất nhiều, anh ấy cũng cần thời gian nghỉ ngơi.
Chiếc Cessna Citation là một chiếc máy bay riêng thuộc sở hữu của chúng tôi và vì tôi cũng có bằng lái máy bay, chỉ sau vài giờ chúng tôi đã đến Colorado. Lần này, vì không có nhân viên đi cùng, tôi đã phải thuê một chiếc xe để tự lái. Ngay khi chúng tôi khởi hành, trời bắt đầu tuyết rơi, làm tắc nghẽn giao thông. Sau gần hai tiếng, chúng tôi mới rời xa lộ chính để đi vào con đường nhỏ dẫn lên núi. Lúc đó, trời đã tối tăm. Khi đi lên cao, tuyết càng trút xuống dày đặc, phủ trắng con đường. Sau một khoảng thời gian, hệ thống chỉ đường GPS không còn hỗ trợ, vì căn nhà không nằm trên đường chính.
Angie chỉ tôi rẽ vào những con đường nhỏ uốn lượn dẫn lên núi trong khi cô ta nhìn đường. Khi chúng tôi đi xa, tuyết rơi ngày càng nhiều, che khuất lối đi và làm cho việc nhìn trở nên khó khăn. Xe chạy được một lúc thì…
Sụp xuống một hố trũng bên lề đường. Mặc dù tôi đã cố gắng nhưng chiếc xe vẫn không nhúc nhích .
Angie đề nghị: – Chúng ta nên vào khách sạn để nghỉ ngơi và đợi đến sáng. Chắc chắn chúng ta sẽ phải ngủ qua đêm trên xe.
Tôi vội vàng khoác lên mình chiếc áo ấm và bước ra khỏi xe để xác định hướng, nhưng xung quanh tối đen mịt mù, không có gì hiển hiện. Tôi cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe ra khỏi miệng hố, nhưng không thành công.
Trong lúc thất vọng, tôi bất ngờ nhìn thấy một ánh đèn từ xa dần dần tiến lại gần. Một người đàn ông cao lớn cầm chiếc đèn pin bước tới và nói: “Có lẽ ông bà lạc đường đây”. Tôi nghe thấy tiếng máy xe rú lên nên bước ra xem. Tôi hỏi ông bà có cần giúp đỡ gì không. Angie vui mừng trả lời: “Chúng tôi vừa mua căn nhà gần đây, chủ nhà cũ tên là Hart nhưng hiện tại chúng tôi không tìm được lối vào”.
Người đàn ông lạ gật đầu: – Hóa ra là như vậy! Tôi quen biết gia đình ông Hart. Họ đã lạc đường. Thực ra, họ nên rẽ trái tại khúc quanh ngay bìa rừng, nhưng đã đi quá xa rồi.
Nhìn thấy tôi lúng túng bên cạnh chiếc xe bị mắc kẹt, ông tiếp tục nói: – Đêm đã khuya rồi, chiếc xe của ông không thể tiếp tục di chuyển. Nếu ông bà không phiền lòng, hãy ghé vào nhà tôi để nghỉ qua đêm. Ngày mai, tôi sẽ mang xe kéo đến giải thoát. Bầu trời đã tối và tuyết đang rơi một cách dày đặc.
Angie đã vui mừng đồng ý ngay lập tức trước khi tôi kịp nói gì. Chúng tôi theo sau người đàn ông mang hành lý và đến căn nhà ẩn dưới rặng thông phủ đầy tuyết. Chủ nhân mời chúng tôi vào trong.
Dưới sự chiếu sáng của ánh đèn, tôi nhận ra người đó là một người có nguồn gốc từ Ấn Độ hoặc Trung Đông, với một hàm râu quai nón đậm nét. Mặc dù không nhớ chính xác, tôi cảm thấy quen thuộc với người này một cách kỳ lạ.
Người chủ lịch sự dẫn chúng tôi vào một phòng riêng.
– Ông bà có thể dùng căn phòng đó, nếu không ngại, xin mời ông bà dùng bữa tối với tôi .
Angie vui mừng đồng ý ngay lập tức: – Xin cảm ơn ông, thật là quý giá, vì từ sáng đến giờ chúng tôi chưa ăn gì cả.
Sau khi chuẩn bị xong, chúng tôi tiến vào phòng ăn và thấy chủ nhân đã sẵn sàng đứng trước một bàn ăn đơn giản nhưng đầy trái cây tươi. Angie quan sát xung quanh căn phòng rộng lớn và nhìn thấy những bức tranh kỳ lạ. “Ông sống một mình à?” Angie hỏi nhẹ nhàng. Chủ nhân chỉ gật đầu và nói: “Vâng, tôi sống một mình.”
Chúng tôi ngồi xuống bàn. Người chủ nhân nói: “Tôi xin lỗi vì không chuẩn bị các món khác. Thường thì tôi chỉ ăn trái cây…” Angie nhanh nhẹn đáp: “Cảm ơn ông, như vậy cũng tốt rồi. Tôi cũng thích trái cây hơn những thứ khác.”
Tôi quan sát người chủ, ông ta có một vẻ quen thuộc trong tiềm thức mà tôi không nhớ đã gặp ở đâu. Tôi có trí nhớ tốt, gần như gặp ai tôi cũng nhớ tên người đó. Làm việc trong lĩnh vực thương mại nhiều năm, tôi thường ghi nhớ tên tuổi những người mà tôi giao tiếp. Trong khi Angie và người chủ trò chuyện thân mật, tôi cố gắng đào sâu trong trí nhớ để tìm kiếm nhưng không thể nhớ được. Bất ngờ, người chủ dường như đoán được suy nghĩ của tôi, quay lại và tự giới thiệu: – Xin lỗi quý vị, tôi quên chưa giới thiệu về mình. Tên tôi là Ramakrishnan, nhưng quý vị có thể gọi tôi là Kris để dễ nhớ.
Chúng tôi cũng muốn giới thiệu về chúng tôi. Ông Kris vui vẻ nâng ly nước cam lên và nói: – Rất vui được gặp quý vị.
Trong khi chúng tôi đưa ly nước cam lên như một cử chỉ lịch sự, tôi nhìn thấy ông Kris đang đeo một chiếc nhẫn trên ngón tay.
Hình dạng của con bọ hung được khảm một viên hồng ngọc đỏ sẫm. Chiếc nhẫn mang một cái gì đó khiến tôi cảm thấy quen thuộc một cách kỳ lạ. Tôi tập trung nhìn người đàn ông này, người có hàm râu quai nón. Ông ta có đôi mắt rất sáng, thể hiện một tâm hồn sâu sắc và hiểu biết phong phú. Cử chỉ của ông chậm rãi và điềm đạm, nhưng vẫn mang vẻ oai nghi lạ lùng. Tôi đã gặp nhiều nguyên thủ quốc gia, các nhà quản lý công ty lớn và những người lãnh đạo cao cấp, nhưng chưa từng thấy ai có vẻ ngoại hình sang trọng và oai nghi như người này.
Angie là một người đáng yêu, thích giao tiếp và có thể dễ dàng trò chuyện với bất kỳ ai. Trong khi đó, tôi lại thích suy ngẫm và ít nói. Bạn bè của chúng tôi thường nói rằng chúng tôi là một cặp đôi hoàn hảo. Angie thường nói nếu có điều gì cần thiết, nhưng tôi là người quyết định khi cần tính toán gì đó.
Trong lúc Angie và chủ nhân đang tiếp tục cuộc trò chuyện trên bàn ăn, tôi quan sát xung quanh căn nhà và thấy những bức tranh với các ký hiệu ngoằn ngoèo kỳ lạ. Mặc dù tôi không rành về nghệ thuật, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra các phong cách hội họa của các nghệ sĩ đương thời như Picasso hay Dali. Tuy nhiên, những bức tranh này khác biệt hoàn toàn so với những bức tranh thông thường, chúng có những đường nét giống như thư pháp nhưng không phải là thư pháp. Trong công ty của tôi cũng có treo một số bức thư pháp của các danh gia Nhật Bản và Trung Hoa mà chủ nhân đã tặng làm kỷ niệm. Tuy nhiên, những bức tranh ở đây có những đường nét khác biệt so với những bức thư pháp kia.
Khi tôi quan tâm đến bức tranh, ông Kris đã mỉm cười và hỏi: “Bạn cảm thấy thế nào về những bức tranh này? Có vẻ như bạn thích nghệ thuật?” Trước khi tôi kịp trả lời, Angie đã chỉ vào một bức tranh và nói ngay: “Tôi nhận ra rồi, đó là những dòng chữ tiếng Phạn. Đó là chữ ‘Om’, phải không?” Chủ nhân bức tranh gật đầu: “Đúng vậy, đó là chữ Phạn, bạn nói đúng. Chữ đó là ‘Om’.”
Angie hét lên vui mừng: – Tôi thấy những từ giống như vậy treo ở phòng tập Yoga.
Vị chủ nhân mỉm cười: – Thì ra bà cũng thực hiện Yoga.
Angie gật đầu: – Mỗi tuần, tôi thường tham gia buổi tập Yoga cùng các bạn. Đây là một hoạt động thể dục giúp duy trì sức khỏe. Bên cạnh đó, tôi cũng thường tập thiền.
Tôi hỏi không muốn câu chuyện đi quá xa: – Vậy là đó là chữ Phạn, nhưng tại sao phòng tập Yoga lại treo chữ này? Tại sao họ không treo những bức tranh đẹp hơn? Ông Kris bật cười: – Có lẽ đó chỉ là một hình thức trang trí. Yoga xuất phát từ Ấn Độ, nên treo chữ Phạn lên đó cũng là một hình thức quảng cáo… Angie lắc đầu: – Không đâu, thầy dạy Yoga của tôi nói rằng đó là một chữ hết sức linh thiêng và khi thiền định phải tập trung tư tưởng vào đó.
Ông Kris gật đầu và nói: – Thì ra vậy! Vậy bà cảm nhận gì khi tập trung vào chữ đó? Angie lúng túng: – Tôi không thấy gì cả. Đó chỉ là một phương pháp để giữ cho suy nghĩ không bị lạc hướng thôi. Nhưng bạn tôi, Connie, lại nói rằng cô ấy thấy nó phát ra ánh sáng và có khi lại hiện ra nhiều dòng chữ khác nhau, nhưng tôi chưa từng trải qua điều đó.
Tôi cười vui vì tôi hiểu Connie rất rõ: Connie là người có trí tưởng tượng phong phú và có thể phóng đại mọi việc… Ông Kris quay đầu nhìn tôi và nói: “Không hoàn toàn đúng, nếu ta thiền định đến một mức độ nào đó, ta có thể nhìn thấy ánh sáng hoặc những hình ảnh kỳ lạ.”
Angie tò mò: – Ông có kiến thức sâu về thiền hay đã từng trải nghiệm điều này chưa? Ông Kris không đáp lại mà quay sang hỏi tôi: – Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Tôi ngắm nhìn đôi mắt rực rỡ của người đàn ông, với những nét hài hước. Tôi đáp: – Tôi chưa từng thử thiền hay Yoga. Đó chỉ là một hình thức thể dục phổ biến hiện nay, tương tự như phong trào tập nhịp điệu một vài năm trước đó.
Ông Kris nhìn tôi với ánh mắt đầy thú vị: – Vậy là bạn chưa từng tập thiền à? Tôi cảm thấy không thoải mái: – Tất nhiên, tôi không tập những thứ đó làm gì? May mà, Angie can thiệp: – Chồng tôi rất bận rộn, thậm chí không có thời gian để chơi thể thao, nên cũng không thể tập Yoga hay thiền được.
Ông Kris chỉ vào một bức tranh và hỏi: – Ông nghĩ sao về bức tranh này? Tôi nhìn vào tranh và thấy những ký hiệu kỳ lạ, nhưng chúng không giống chữ Phạn. Những ký hiệu này khác biệt hoàn toàn.
Mỗi khi nhìn, tôi càng cảm thấy một sự quen thuộc và sức hút đang kéo tôi vào. Bất ngờ, tôi nói lên mà không suy nghĩ: – Nó trông quen thuộc, nhưng không giống chữ Phạn.
Ông Kris mỉm cười với một biểu cảm khác thường: – Ông nói đúng, đó không phải là chữ Phạn, mà là một cổ ngữ đã thất truyền từ rất lâu rồi. Nhưng ông cảm thấy nó như thế nào? Tôi nhìn những đường nét uốn lượn kỳ lạ nhưng không thể nhớ đã thấy nó ở đâu. Angie đột nhiên chen vào: – Tôi cũng cảm thấy nó quen thuộc làm sao. Hình như tôi cũng đã thấy ở đâu đó.
Ông Kris cười, diện mạo huyền bí: – Hiện tại thì ông bà không nhớ đâu, nhưng sau này sẽ nhớ.
Angie chỉ tay lên một chiếc hộp kính gần đó và nói: – Còn cái cây gậy kia nữa, tôi cũng nhận ra nó. Nó là cái gì vậy?
Khi tôi đến gần chiếc bàn nhỏ bên cạnh lò sưởi, tôi phát hiện ra một chiếc hộp dài được đặt trên đó. Trong hộp, có một cây gậy màu bạc dài khoảng sáu gang tay. Chủ nhân của nó đến gần và đưa cây gậy cho tôi. Đó là một cây gậy được làm bằng chất liệu giống như pha lê, màu bạc, và có bảy viên đá quý được gắn vào bằng ngón tay cái, mỗi viên có một màu sắc khác nhau. Khi tôi cầm lên, tôi ngay lập tức cảm nhận được một luồng điện cực mạnh từ cây gậy truyền vào tay, khiến tôi giật mình. Tôi hỏi:. – Đây là cái gì vậy? Ông Kris nhẹ nhàng chạm tay lên cây gậy một cách trang trọng và nói: – Đây là một vật có tác dụng chữa bệnh, nếu biết cách sử dụng.
Tôi tập trung nhìn vào cây gậy, những viên đá quý trên đó bất ngờ tỏa ra ánh sáng kỳ lạ làm cho mắt tôi lấp lánh. Tôi cầm cây gậy một cách run rẩy, màu sắc và ánh sáng của những viên đá quý bắt đầu xoay nhẹ nhàng như bánh xe và phát ra những tia sáng đặc biệt.
Angie phát biểu: – Khi nó chiếu sáng, tôi đã nghĩ rằng nó là một chiếc đèn pin, nhưng bây giờ những viên đá này lại xoay quanh với màu sắc kỳ lạ. Ông Kris, nó là cái gì vậy? Chủ nhân nói thầm vào tai tôi: – Ông không nhận ra nó à? Lúc đó tôi như bị mê hoặc. Tôi nắm chặt cây gậy nhưng đầu óc hoang mang không thể tả. Tôi tự hỏi: – Tại sao tôi lại ở đây? Tại sao tôi lại gặp một người lạ trong căn nhà với những vật lạ lùng như thế này? Cùng lúc đó, tôi cảm nhận được một luồng năng lượng từ cây gậy truyền vào cơ thể khiến cả người tôi nóng lên. Ngực tôi bị nghẹn lại, đầu óc trở nên hỗn loạn, không kiểm soát được nữa. Tôi muốn buông cây gậy ra nhưng nó có một sức hút kỳ lạ khiến tôi không thể bỏ xuống. Tai tôi nghe thấy tiếng sóng biển và những âm thanh lạ lùng khác.
Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, quay đầu nhìn Angie, thấy cô ấy vẫn đứng yên. Quay lại nhìn vị chủ nhân, chỉ thấy đôi mắt sáng quắc của ông đang nhìn thẳng vào tôi. Ông nói với giọng thân mật: “Hãy giữ bình tĩnh, để tiềm thức làm việc, rồi bạn sẽ hiểu.”
Đầu óc của tôi trở nên mờ mịt. Âm thanh của sóng biển ngày càng vang lên và tôi nghe thấy những tiếng động kỳ lạ mà không thể nhận ra chúng là gì. Mọi thứ dần trở nên hỗn loạn, xoay vòng trong tâm trí tôi. Đột nhiên, tôi cảm nhận một lực lượng mạnh mẽ đập vào ngực tôi, khiến tôi mất cảm giác…
Phần hai của Atlantis tiền kiếp dậy sóng. Trước mắt tôi là một bãi biển hoang vu, tiếng sóng vỗ rì rào. Gần đó, những cỗ máy phát ra những âm thanh lạ lùng mà tôi không hiểu. Một cảm giác buồn bực, khó chịu tràn ngập lòng tôi. Khi tôi cúi mặt xuống, tôi nhận ra rằng bàn chân của tôi to hơn trước đây. Lúc đó, tôi nhận ra rằng tôi đang ở trong một thể xác khác.
Tôi nhắm mắt, vung tay mạnh mẽ để tỉnh dậy và tự hỏi: “Có phải đây là một giấc mơ?”. Nhưng không, tôi không mơ. Khi tay tôi vừa vung lên, nó chạm vào một vật đeo bên hông. Tôi cầm lên và nhìn, đó là cây gậy pha lê với bảy viên ngọc gắn trên đó, mà tôi vừa thấy ở nhà của người lạ. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng đầu óc tôi cứ xoay vòng và những hình ảnh trong đầu xuất hiện như một bộ phim chạy chậm.
Tôi cảm thấy mình đang sinh sống trên một lục địa rộng lớn, được bao quanh bởi nhiều hòn đảo nhỏ. Không hiểu sao, tôi có cảm giác rằng đây chính là châu lục Atlantis. Theo truyền thuyết Hy Lạp, Atlantis từng tồn tại trong quá khứ, nằm ở giữa Đại Tây Dương, được coi là nguồn gốc của nền văn minh Ai Cập và Hy Lạp, và có sự ảnh hưởng lớn đến nền văn minh hiện đại.
Tuy nhiên, ngay từ lúc đó, tôi đã nhận ra rằng văn minh Atlantis đã vượt xa nền văn minh hiện đại rất nhiều, bởi vì nó được xây dựng dựa trên những kiến thức hoàn toàn khác biệt so với ngày nay. Từ hàng ngàn năm trước, người Atlantis đã phát triển một loại kiến thức đặc biệt, giúp họ khai thác được những sức mạnh tiềm ẩn trong tự nhiên và tạo ra một nền văn minh tiên tiến.
Học kỹ thuật ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Tâm trí của tôi trở nên bối rối, những hình ảnh của một ký ức kỳ lạ nào đó liên tục tràn về.
Vào thời điểm đó, người Atlantis đã sáng tạo ra những công cụ và máy móc tiên tiến với những mục đích không thể giải thích được ngày nay. Tôi cảm thấy không thoải mái vì đang tồn tại trong một thể xác khác, với những cảm nhận và kiến thức xa lạ. Với ý chí mạnh mẽ, tôi nhận ra sự khác biệt lớn giữa cách suy nghĩ và cảm nhận của tôi lúc này và của thời hiện đại. Lý trí của tôi chỉ đóng vai trò nhỏ bé và yếu ớt trong thể xác này. Sau một cuộc đấu tranh vô ích giữa hai sự hiểu biết đối lập, tôi buộc phải để tiềm thức chiếm ưu thế, đưa tôi trở về quá khứ như một người quan sát một bộ phim về quá khứ.
Trong tâm trí tôi, những hình ảnh lịch sử của Atlantis đang dần hiện ra rõ ràng. Từ xa xưa, người dân Atlantis đã phát triển một nền khoa học tập trung vào việc khai thác những năng lực ẩn trong tự nhiên. Họ có khả năng sử dụng ánh sáng mặt trời và sự rung động của các loại đá quý để thay đổi cấu trúc nguyên tử của vật chất. Nhờ đó, họ có thể làm mất trọng lượng của các vật thể để xây dựng những công trình kiến trúc vĩ đại, vững chắc mà không cần sử dụng đến công nghệ hiện đại như ngày nay. Hơn nữa, họ còn có khả năng điều chỉnh cấu trúc nguyên tử trong cơ thể con người để sử dụng những cây gậy gắn đá quý trong việc chữa bệnh.
Vào thời điểm đó, Atlantis bao gồm ba quốc gia là Og, Poseida và Arya. Og nằm ở phía Tây của Đại Tây Dương, bao gồm ba hòn đảo được kết nối bởi những cây cầu đá tuyệt đẹp. Poseida nằm ở phía Đông của Đại Tây Dương, có một hòn đảo lớn và nhiều đảo nhỏ bao quanh. Arya nằm ở phía Bắc của Đại Tây Dương, được xây dựng trên một cao nguyên hỏa sơn.
Văn minh Atlantis đã tồn tại suốt hàng ngàn năm với nhiều triều đại vua chúa. Xã hội Atlantis được chia thành nhiều tầng lớp khác nhau. Những người ở tầng lớp cao đánh đập, cướp bóc những người ở tầng lớp thấp một cách tàn bạo và dã man. Văn hóa của họ tập trung vào “sức mạnh là quyền lực, sự yếu đuối là thất bại” mà không có hệ thống pháp luật hay công bằng như xã hội hiện đại. Trừ một số người ít, khả năng tư duy của họ chưa được phát triển.
Đa số người Atlantis vẫn sống theo bản năng, do đó họ có xu hướng ích kỷ, tham lam và hung bạo.
Bởi vì tình dục là một bản năng tự nhiên, nên người dân trong xứ này chưa biết cách kiểm soát dục tính. Hành động giao hợp giữa nam và nữ là điều phổ biến trong xã hội và không bị cấm đoán hay kiểm soát bởi bất kỳ luật lệ nào. Khi nhìn thấy những cảnh tượng giao hợp của con người, ký ức của tôi trở nên rối loạn hơn, vì chúng không khác gì những hành vi sinh sản của loài vật hiện nay. Trong xã hội đó, hành động giao hợp nam nữ xảy ra ở khắp mọi nơi, không phân biệt, không dựa trên tình cảm mà chỉ dựa trên bản năng và sức mạnh.
Khó diễn đạt điều này vì mỗi khi cố gắng suy nghĩ, tôi bị những ý nghĩ kỳ lạ xâm chiếm, khiến đầu tôi đau nhức không thể tả. Tôi biết rằng xã hội Atlantis đã tiến bộ khoa học rất nhiều, hơn hẳn hiện tại, nhưng không hiểu sao họ lại sống theo những quy tắc kỳ lạ như vậy? Có lẽ vì họ chưa phát triển tình yêu thương và lý trí, nên hầu hết người Atlantis lúc đó sống ích kỷ, tham lam và hung ác. Trong suốt lịch sử của họ, chiến tranh giữa các quốc gia diễn ra liên tục, dường như không bao giờ dừng lại.
Atlantis, một thành phố tiên tiến, đã được xây dựng dựa trên kiến thức khoa học tiên tiến hơn so với hiện tại. Nhờ sự ưu tiên đặc biệt cho những người có chuyên môn, các lĩnh vực khoa học đã phát triển mạnh mẽ, với những phát kiến đáng kinh ngạc mà ngày nay được coi là “phép lạ”.
Người Atlantis có thể sử dụng rung động của kim thạch và âm thanh để chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành năng lượng, phục vụ cho cuộc sống hàng ngày và tạo ra các loại vũ khí.
Bằng cách gắn những dụng cụ vào óc, họ có thể thay thế bộ óc con người và khiến họ trở nên ngu ngốc, mất đi sự hiểu biết và bị người khác chi phối.
Nhờ kỹ thuật làm mất trọng lượng vật chất để nâng các tảng đá khổng lồ và vật nặng lên cao, người Atlantis đã xây dựng những công trình kiến trúc vô cùng ấn tượng. Châu Atlantis đã phát triển với hàng ngàn công trình, hàng trăm kim tự tháp khổng lồ và hàng ngàn ngôi nhà gần nhau, được kết nối bởi đường sá rộng rãi và những cây cầu đá vĩ đại, nối liền các đảo nhỏ với nhau.
Nhờ kỹ thuật thay đổi nguyên tử, người Atlantis có thể chữa lành những cơ quan yếu, tổn thương trong cơ thể và biến đổi con người thành sinh vật khác bằng cách ghép cơ quan nội tạng của loài vật. Kết quả là một loại sinh vật mới, “nửa người, nửa thú”, có khả năng đặc biệt mà con người không thể tưởng tượng.
Phần lớn những người thuộc đẳng cấp thấp, như tù binh chiến tranh, thường bị đưa vào phòng thí nghiệm để kết hợp với nguyên tử của các loài thú mạnh như trâu, bò, voi, ngựa, lạc đà. Sau đó, họ được giao phó những công việc nặng nhọc như xây dựng và vận chuyển. Đây là một lực lượng lao động không có khả năng suy nghĩ, chỉ tuân theo mệnh lệnh.
Các sinh vật người được kết hợp với nguyên tử của các loài vật hung dữ như sư tử, cọp, beo, chó sói, v.V. Được giao nhiệm vụ kiểm soát những người thuộc đẳng cấp thấp hoặc những người đã bị biến đổi thành sinh vật “nửa người, nửa thú”, phục vụ cho lợi ích của đẳng cấp cao hơn. Đây là những binh lính cực kỳ hung dữ, sẵn sàng gây hại, hoàn toàn không cảm thấy, không quan tâm đến sự đau khổ của các sinh vật khác.
Do có một đội quân dũng mãnh và hung dữ, các nhà lãnh đạo tham vọng của Atlantis thường xuyên xảy ra các cuộc chiến để mở rộng thế lực của họ, dẫn đến những trận đánh đẫm máu giữa các vùng này.
Xứ Og là trung tâm của một tôn giáo sùng bái nhiều thần linh độc đáo, với những nghi lễ kỳ quặc, bắt nguồn từ sự ảnh hưởng của những sinh vật thuộc về một thế giới khác với con người. Đây cũng là nơi mà những người thuộc tầng lớp thấp hơn hoặc tù binh chiến tranh thường bị hi sinh để cúng thần, hoặc được đưa đến “lò luyện người” để trở thành lực lượng lao động.
Triều đại Belia của xứ Og đã kéo dài suốt hàng trăm năm với những vị hoàng đế tham vọng, muốn mở rộng sự ảnh hưởng của thế lực tôn giáo bằng cách tiến hành chiến tranh với các quốc gia khác. Với đức tin được xây dựng dựa trên một tôn giáo thờ phượng nhiều quỷ thần từ thế giới xa xăm, yêu cầu những nghi thức cúng tế đẫm máu, người dân xứ Og đã…
Sống trong một môi trường đầy bạo lực, ích kỷ, vô cảm và thù hận, xã hội của xứ Og chứng kiến nhiều tranh chấp và thù hằn giữa con người do chủ trương “mạnh được, yếu thua”. Đây là nơi mà loài người và loài “nửa người, nửa thú” giao phối và sinh ra một giống “quái vật” dị hợm được gọi là “con của Belia”. Với sự tồn tại của tranh chấp và thù hận trong xã hội này, các hoàng đế triều đại Belia đã âm mưu tạo ra lòng căm thù với các nước khác, nhằm chuyển hóa sự hận thù trong lòng dân chúng thành các cuộc chiến tranh, tránh cho xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn hoặc nội chiến.
Trong ba vùng lãnh thổ của Atlantis, Poseida được coi là vùng lãnh thổ lớn nhất và phồn thịnh nhất, với sự dồi dào về tài nguyên và quân đội mạnh mẽ. Poseida bao gồm một số đảo nhỏ bao quanh một hòn đảo lớn, nơi có những khu rừng rậm và động vật hoang dã đa dạng. Nhờ vào đất đai phong phú và tài nguyên thiên nhiên đa dạng, đời sống xã hội ở vùng này phát triển cao hơn so với các vùng khác.
Người Poseida tôn kính nhiều thần linh như thần biển, thần sông, thần núi, thần cây và nhiều thần khác, nhưng không thực hiện các nghi thức giết người như tôn giáo của xứ Og.
Nền khoa học của Poseida đã phát triển mạnh mẽ với nhiều phát minh và công nghệ hiện đại. Dân chúng Poseida có cuộc sống tiện nghi và đầy đủ vật chất, nhưng điều này cũng dẫn đến việc sống xa hoa, phung phí và ích kỷ, cùng với một tính dâm dục cao. Họ thường bắt cóc phụ nữ từ các vùng khác để phục vụ nhu cầu tình dục. Điều này đã tạo ra một mối thù lớn giữa Poseida và các vùng khác. Trong lịch sử Atlantis, Og và Poseida luôn chiến đấu với nhau, nhưng Poseida thường chiếm ưu thế. Nhờ những chiến thắng này, Poseida đã bắt được nhiều tù binh “nửa người, nửa thú” và biến họ thành nô lệ phục vụ cư dân địa phương. Điều này đã làm cho mối hận thù giữa hai vùng trở nên sâu sắc hơn.
Arya là một xứ nhỏ nhất nằm ở phía Bắc, được xây dựng trên bình nguyên của một hỏa sơn và dân cư ở đây rất thưa thớt. Mặc dù điều kiện sống khắc nghiệt và đất đai khó canh tác, xã hội Arya lại phát triển theo một hướng hoàn toàn khác biệt so với hai nước khác. Văn hóa của xứ này dựa trên tôn giáo tôn thờ mặt trời, với những giáo điều và kỷ luật rất nghiêm ngặt, không cho phép con người giao hợp với giống “nửa”.
Do đó, người Arya thường tự hào rằng họ là tộc người Atlantis tinh khiết nhất.
Nền khoa học Arya được xây dựng dựa trên hiểu biết về ánh sáng mặt trời và sự rung động của các loại kim thạch. Truyền thống từ lâu, người Arya đã sáng tạo ra những cây gậy ngọc có khả năng thay đổi cấu trúc nguyên tử của vật chất để điều trị bệnh tật, cũng như các loại vũ khí sử dụng ánh sáng để tiêu diệt vật chất. Nhờ vào những thành tựu này, Arya đã duy trì sự độc lập trong một thời gian dài.
Lịch sử Atlantis khó có thể hiện lên trong tiềm thức của tôi như một hình ảnh sống động. Tâm trí tôi tiếp tục quay cuồng trong những sự kiện kỳ lạ.
Tôi sinh ra ở xứ Arya, trong một gia đình quý tộc, thuộc tầng lớp cao nhất của xã hội. Cha tôi là người đứng đầu trường y, sử dụng cây gậy ngọc để chữa bệnh. Từ nhỏ, tôi đã được dạy về năng lực tự nhiên của các loại đá quý. Khi trưởng thành, tôi được huấn luyện bởi các danh sư và trở thành một y sĩ tài giỏi trong nước.
Với sự tôn trọng từ xã hội, tôi trở nên tự cao và có những khát vọng đặc biệt. Dù đã được đào tạo về y học, tôi không hài lòng mà muốn tìm hiểu thêm về những khả năng siêu nhiên chỉ được truyền bá cho các giáo sĩ trong đền Thái Dương.
Một lần tôi đã hỏi cha tôi về vấn đề này, nhưng ông trả lời rằng: – Có một ranh giới rõ rệt giữa sự hiểu biết mà chúng ta có thể sử dụng hiện nay và sự hiểu biết dựa trên những kiến thức mà chúng ta không kiểm soát được. Để nghiên cứu về khả năng siêu nhiên, con người cần phải có khả năng kiểm soát bên trong. Chỉ có một số rất ít giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương biết phương pháp này, hầu như không ai có thể học được. Nếu không kiểm soát được bản thân và sử dụng những khả năng này một cách vô trách nhiệm, thì có thể gây ra những hậu quả vô cùng nguy hiểm. Đó là lý do tại sao chúng ta phải thấu hiểu rõ ràng về mối nguy hiểm tiềm tàng của những kiến thức này và không được sử dụng những gì chúng ta không thể kiểm soát được.
Tôi tự hỏi:
Vì sao chỉ có giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương mới có đặc quyền thu nhận kiến thức về các năng lực siêu nhiên? Cha tôi trả lời: – Con cần hiểu rằng trong mỗi người đều tồn tại hai động lực tương phản: một là hướng lên trên – hai là hướng xuống dưới. Khi con người chưa biết phát triển khả năng suy luận để kiểm soát tâm lý mà chỉ sống theo bản năng, thì động lực bản năng hướng xuống dưới thường chiếm ưu thế. Nó thúc đẩy con người hành động theo dục vọng. Con có thể thấy rằng người dân xứ Og và Poseida sống dựa trên bản năng và kết quả là những cuộc chiến tranh kéo dài, không thể chấm dứt.
Hiện tại, tại Arya chỉ có các giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương. Nhờ tuân thủ các quy tắc tự nguyện và phát triển khả năng suy luận, họ có thể kiểm soát tâm trí mình mà không bị ảnh hưởng. Nhờ kiềm chế ham muốn, những người này có thể sử dụng các khả năng siêu nhiên đặc biệt trong vũ trụ. Chúng ta chỉ được dạy một số kiến thức hạn chế vì tâm trí của chúng ta vẫn đang trong trạng thái chiến đấu, đấu tranh giữa hai khía cạnh đối lập. Vì vậy, nếu chúng ta chưa thể kiểm soát bản thân, chúng ta phải tự giới hạn và không để tham vọng chi phối và kiểm soát.
Mặc dù đã bị cảnh cáo, tôi vẫn thầm mong muốn sở hữu những khả năng siêu nhiên đó. Một lần, tôi đã hỏi một giáo sĩ có kiến thức về lĩnh vực này và ông ấy nói: “Hiện tại, tư duy của bạn chưa đủ phát triển để có thể suy luận, thường phụ thuộc vào bản năng. Để sở hữu những khả năng siêu nhiên, bạn phải trải qua những giai đoạn tu tập để phát triển đức tính hy sinh và kiên nhẫn, để kiểm soát bản thân.”
Tôi hỏi:. – Vậy tôi cần làm gì? Giáo sĩ trả lời: – Đầu tiên, bạn cần rèn tính hy sinh để thực hiện những việc “trái ngược” với những điều mọi người thường làm. Nếu mọi người tham lam cái gì, bạn phải đi ngược lại, tức là từ bỏ sự tham lam đó. Nếu mọi người chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, bạn phải làm ngược lại, tức là chỉ quan tâm đến lợi ích của người khác.
Bạn phải cung cấp cho người khác những gì tốt nhất, thực hiện những hành động.
Mà không ai muốn thực hiện, và chỉ nhận những gì không ai muốn nhận. Đó là bước đầu trong việc rèn luyện kỷ luật hy sinh, nhẫn nại, để kiểm soát nội tâm. Liệu bạn có thể làm được không? Văn minh Atlantis lúc đó hoàn toàn được xây dựng dựa trên “luật của người mạnh”, không ai biết gì về sự hy sinh hay tinh thần tự chủ. Phần lớn mọi người đều sống một cách tham lam, ích kỷ và hung bạo, sẵn sàng chiếm đoạt mọi thứ cho riêng mình nên việc thực hiện những điều mà giáo sĩ nói là rất lạ lùng, khó hiểu.
Tôi là người tự cao và ích kỷ, tất nhiên tôi không chịu nghe lời dạy bảo của giáo sĩ này. Tuy nhiên, vì muốn sở hữu quyền năng này, tôi phải đạt được nó. Tôi tính toán và tìm đến những người có kiến thức này thông qua một con đường shortcut.
Ban đầu, tôi quen biết Biru, một người dân xứ Arya đã sống lâu tại Og và có kiến thức về các nghi thức gọi các quyền năng từ thế giới khác. Hắn đã chỉ dẫn cho tôi những nghi thức đó, mặc dù trong xứ Arya, việc này bị cấm hoàn toàn bởi pháp luật và tôn giáo.
Chúng tôi kín đáo trao đổi kiến thức trong một căn hầm sâu dưới lòng đất. Từ đó, tôi đắm chìm trong các nghi lễ tôn thần, sử dụng máu để triệu hồi những lực lượng kỳ lạ, tiếp xúc với các sinh vật từ thế giới khác mà không suy nghĩ về hậu quả có thể xảy ra.
Đang say mê với những hình ảnh này, bỗng nhiên tâm trí tôi chuyển sang một kỷ niệm khác. Tôi thấy mình đứng trong một tòa nhà to lớn, tráng lệ, với kiến trúc tinh xảo, vượt trội hơn so với những công trình đẹp nhất hiện nay. Đó là ngôi đền thờ thần Thái Dương trang nghiêm, nơi các nghi lễ tôn giáo được thực hiện bởi các thánh nữ. Bất ngờ, tôi nhìn thấy đôi chân trần gợi cảm, trắng ngần của một thánh nữ thoáng hiện khi cô ấy đang múa hát duyên dáng với điệu nhạc huyền bí trong ánh sáng đuốc bập bùng huyền ảo. Tôi lén hỏi và biết tên cô ấy là Kor. Không hiểu sao hình ảnh cô thánh nữ Kor này ngay lập tức chiếm giữ và thống trị tâm trí tôi, khiến tôi không còn kiểm soát được mình. Không thể rời mắt khỏi người thiếu nữ yêu kiều, trong đầu tôi bắt đầu nảy sinh ý tưởng chiếm đoạt người thánh nữ. Là người thuộc đẳng cấp.
Trong xã hội cao cấp, khi tôi muốn sở hữu một thứ gì đó, tôi thường phải tìm mọi cách để chiếm đoạt nó.
Khi nghĩ về điều đó, đầu óc tôi bỗng trở nên hỗn loạn bởi những hình ảnh ma quái đan xen, những nghi lễ thần bí kỳ lạ, những con vật bị hi sinh để cúng thần, những cốc rượu pha từ máu tươi của chúng, và những hình ảnh hoang dại của đám đông nam nữ vui đùa dưới ánh đèn lấp lánh, trong một không gian hoang vu. Bất ngờ, tôi chứng kiến những cảnh tượng đáng sợ, máu chảy thịt rơi, và những cuộc chiến khốc liệt giữa những binh lính “nửa người, nửa thú” cướp đi sinh mạng của những nạn nhân. Nỗi sợ hãi ngày càng tăng lên, khiến tôi kêu lên một cách hoảng sợ, và sau đó tôi tỉnh giấc.
Tôi tỉnh dậy trong một căn phòng xa lạ, cả cơ thể đều ướt đẫm mồ hôi. Angie nhìn tôi với ánh mắt lo lắng: – Anh có sao không? Khi đó, tôi nhận ra rằng đã sáng và nhận ra rằng tôi vừa trải qua một giấc mơ kỳ lạ.
Angie lo lắng hỏi: – Anh có chuyện gì không? Tự nhiên anh hét lớn làm em sợ mất.
Tôi bất ngờ: – Mình đang ở đâu vậy? Angie cười nói: – Anh không nhớ à? Hôm qua chiếc xe của chúng ta trượt xuống hố, may mà có ông Kris đưa tôi về nhà ông ấy.
Khi đó tôi mới nhớ ra rằng mình đang ở trong căn nhà của một người không quen.
Angie nhắc nhở: – Trời đã rạng rỡ, anh hãy đi vào phòng tắm để thay quần áo, sau đó xuống dưới nhà. Em nghe tiếng ông Kris mở cửa ra từ sớm nhưng thấy anh đang ngủ say nên chưa muốn đánh thức.
Dù tôi chưa hoàn toàn tỉnh táo, tôi cố gắng giữ bình tĩnh. Tôi hỏi Angie: “Hôm qua chúng ta vào phòng lúc nào?” Và cô ấy trả lời.
Chúng ta đang trò chuyện chưa hoàn thành, nhưng em nhận thấy anh rất mệt mỏi, vì vậy ông Kris đã yêu cầu em đưa anh về phòng nghỉ sớm.
Khi chúng tôi bước vào phòng ăn, ông Kris đã đợi sẵn và hỏi: “Ông bà đã ngủ ngon chứ? Mời ông bà dùng bữa sáng.” Tôi đang chuẩn bị đưa chiếc xe của ông bà lên xe trục kéo.
Trong lúc Angie vui vẻ kéo ghế ngồi, tôi quan sát xung quanh căn phòng với những bức tranh kỳ quặc và chiếc hộp chứa cây gậy quý giá làm từ pha lê. Nó vẫn nằm yên trên chiếc bàn nhỏ gần lò sưởi. Thì ra đó không phải là một giấc mơ mà là một sự thật.
Tâm trí của tôi đã hoàn toàn tự do. Tôi nghĩ trong lòng: “Tôi phải khám phá sự thật về cây gậy ngọc này”.
Sau khi ăn sáng, chúng tôi đi theo ông Kris đến nơi chiếc xe bị rơi xuống hố. Tôi nhận thấy chủ nhân đã chu đáo chuẩn bị một chiếc xe tải lớn và đã buộc sợi dây xích sắt vào chiếc xe của tôi để kéo lên.
Angie vui mừng: – Thật là phiền ông quá, tôi không ngờ ông đã chuẩn bị chu đáo từ sớm.
Sau khi kéo chiếc xe lên, ông Kris chỉ rõ đường đến căn nhà mới. Tôi im lặng quan sát người đàn ông có bộ râu quai nón rậm rạp này, như chờ đợi một giải thích. Tuy nhiên, ông vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Sự im lặng của ông làm tôi cảm thấy nóng lòng và bối rối. Tôi muốn nói lên nhưng không hiểu sao lại im lặng. Cả hai chúng tôi nhìn nhau nhưng không nói gì.
Theo hướng dẫn của ông Kris, chúng tôi đã đến ngôi nhà mới. Như Angie đã mô tả, đó là một ngôi nhà tuyệt đẹp, được xây dựng đơn giản, nằm trên một ngọn đồi thấp nhìn xuống thung lũng và một hồ nước xanh biếc phía dưới.
Angie nhanh nhẹn mở cửa và bước vào. “Anh thấy căn nhà này như thế nào?” – Cô hỏi. “Nó có đúng như anh mong muốn không?” Tôi gật đầu đồng ý, nhưng trong lòng vẫn còn hoang mang về những gì đã xảy ra đêm qua. Tôi tự hỏi liệu đó có phải là một giấc mơ không? Trong khi Angie sắp xếp hành lý, tôi ngồi xuống trên chiếc ghế bành và tự đặt câu hỏi trong đầu: “Tại sao tôi lại có thể nhớ lại một ký ức xa xôi như vậy?”
Chi tiết rõ ràng như vậy? Liệu châu Atlantis có tồn tại hay chỉ là một truyền thuyết?”
Atlantis hiện nay được biết đến thông qua tài liệu giảng dạy của triết gia Hy Lạp Plato, được ghi lại trong cuốn Timaeus và Crotias.
Plato đã kể cho học trò rằng Solon, một sử gia nổi tiếng của Hy Lạp, khi đi du hành qua Ai Cập đã được các vị trưởng lão xứ này tiết lộ về một đại lục lớn đã chìm sâu xuống đáy biển khoảng hai mươi ngàn năm trước đó. Plato đã ghi chép lại những lời dạy bảo của Solon về lục địa này, nơi từng có một nền văn minh rực rỡ nhưng đã suy thoái do tham vọng điên cuồng của những người lãnh đạo, và sau đó bị chìm sâu xuống biển do một trận động đất khủng khiếp.
Hiện nay có nhiều giả thuyết khác nhau về Atlantis. Có người cho rằng đó là một đại lục có thật vì bờ biển Địa Trung Hải còn sót lại một vài di tích của một nền văn minh cổ xưa mà không ai biết rõ. Người khác cho rằng đó chỉ là một huyền thoại được người xưa tạo ra để dọa nạt dân chúng mà thôi. Trải nghiệm vừa qua đã cho tôi một cảm giác khác thường vì tôi thấy rõ mình đã từng sống ở đó và lịch sử xứ này hiện rõ trong đầu tôi như một cuốn phim sống động. Không một giấc mơ nào lại có thể hiển hiện rõ rệt với từng chi tiết Như vậy .
Cả ngày đó, tâm trí tôi không ngừng nghĩ về kỷ niệm đặc biệt này nhưng không tìm ra câu trả lời. Trong khi Angie vui vẻ chỉ cho tôi xem các vật trưng bày, những bức tranh nghệ thuật mới mua và cảnh đẹp của căn nhà, tâm trí tôi chỉ bị ám ảnh bởi giấc mơ kỳ lạ đêm qua.
Tôi tự đặt câu hỏi: “Nếu đó chỉ là một giấc mơ, tại sao tôi lại bị ám ảnh một cách sâu sắc như thật đến tận lúc này?”. Dù trước đây tôi không đọc bất kỳ tài liệu nào về Atlantis hay quan tâm đến huyền thoại lịch sử này, nhưng tại sao bây giờ tôi lại biết về nền văn minh đã mất này đến từng chi tiết như vậy? Mặc dù tôi thường rất bình tĩnh trong mọi tình huống, nhưng lúc này tôi lại rất hoang mang trước trải nghiệm không thể giải thích này.
Vào chiều hôm đó, Angie đề xuất: – Em muốn chuẩn bị một bữa ăn tuyệt vời để tri ân ông Kris. Anh nghĩ thế nào? Nếu không có ông ấy, chắc chắn chúng ta sẽ phải tìm nơi để ngủ.
Trên ô tô rồi .
Tôi gật đầu dù đầu óc không thể thoát khỏi những hình ảnh kỳ lạ của giấc mơ đó. Angie vui vẻ nói: – Tiếc quá, em không xin số điện thoại của ông Kris. Hoặc anh có thể đưa xe đến và mời ông ấy đến đây ăn tối với chúng ta. Anh nghĩ sao? Nếu có gì, hãy gọi cho em biết.
Angie là một đầu bếp tài ba. Trong tủ lạnh ở nhà, luôn đầy đủ thực phẩm. Tôi không ngờ rằng cô ấy cũng đã mua sắm đồ ăn cho căn nhà nghỉ dưỡng này từ trước. Tôi hơi ngạc nhiên và hỏi: “Có vẻ như ông ấy chỉ ăn trái cây phải không?” Angie gật đầu và nói: “Không sao, tôi đã chuẩn bị sẵn một số trái cây ở đây. Bất kỳ món gì ông ấy muốn, tôi cũng có thể chuẩn bị ngay lập tức.”
Khi tôi đến trước cửa, ông Kris đã bước ra, dường như ông ấy đã biết tôi sẽ đến. Chúng tôi cùng nhau vào nhà, ông Kris mời tôi ngồi xuống ghế. Thấy tôi lo lắng, ông ấy tỏ ra thân mật hỏi: – Có điều gì ông muốn hỏi tôi không? Tôi cố bình tĩnh nhưng có một sức mạnh nào đó thúc đẩy, tôi chỉ vào chiếc hộp chứa cây gậy ngọc và ngập ngừng hỏi: – Tôi muốn biết… À không, tôi muốn hỏi… Cây gậy đó là gì vậy? Tôi chưa nói xong, ông Kris gật đầu như hiểu ý tôi.
Ông nói một cách chậm rãi: – Tôi biết rằng ông sẽ đặt câu hỏi về cái gậy này. Nó chính là vật thuộc về ông đấy.
Tôi bất ngờ: – Có phải… Có phải… Chuyện hôm qua không phải là giấc mơ sao? Ông Kris nhẹ cười: – Không đâu, nó giúp ông khôi phục một kỷ niệm xa xôi, một cuộc sống mà ông đã quên từ lâu.
Nhìn thấy sự lúng túng của tôi, ông Kris nhẹ nhàng giải thích:.
Đừng lo lắng về điều này, tôi sẽ trả lời những câu hỏi mà ông đang băn khoăn. Đầu tiên, tôi sẽ giải thích những khái niệm cơ bản để ông hiểu rõ hơn về quy luật vũ trụ và tình hình hiện tại của ông. Tôi cũng có thể giúp ông trải nghiệm thực tế để ông tự mình khám phá.
Từ trước đến nay, tôi chưa bao giờ tin vào những điều mơ hồ, không rõ ràng. Tôi không tin vào việc có nhiều kiếp sống như một số tôn giáo đề cập. Tôi không tin rằng con người chết đi rồi đầu thai vào một kiếp khác. Tôi không quan tâm nhiều đến những điều không rõ ràng như vậy. Tôi là người thực tế, không dễ tin người, nhưng lúc đó không hiểu tại sao tâm trí tôi trở nên rất bối rối, lo lắng.
Tôi cảm thấy hồi hộp: – Thật sao, ông có thực sự đã trải qua nhiều kiếp sống không? Ông Kris chỉ cười nhẹ: – Đương nhiên rồi, nhưng ông không cần phải tin, mà hãy trải nghiệm điều đó. Khi đó, ông sẽ chứng kiến những biến đổi trên bề mặt trái đất, những quy luật không thể thay đổi của vũ trụ và tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi hiện tại của ông.
Tôi lúng túng: – Có thể… Tôi đã từng sinh sống ở đó? Ở Atlantis à? Ông Kris nhìn thẳng vào mắt tôi: – Tại sao không? Ông đã trải qua nhiều nơi, nhiều kiếp, và đến lúc ông cần nhớ lại những điều đó. Đó là những gì ông đã dạy tôi một cách kỹ lưỡng.
Tôi bất ngờ: – Tôi đã từng yêu cầu ông như thế nào? Khi nào chứ? Ông Kris gật đầu: – Chúng ta đã quen biết từ lâu. Đúng ông đã yêu cầu tôi giúp đỡ nên mới có cơ hội gặp nhau hôm nay.
Tôi lại một lần nữa bị choáng ngợp khi nghe câu hỏi: “Chúng ta đã gặp nhau từ lúc nào? Tại sao tôi không nhớ?” Ông Kris trả lời một cách thong thả:
Đây là lần đầu ta gặp nhau trong cuộc sống này, nhưng chắc chắn còn nhiều cuộc đời khác nữa. Chúng ta đã có mối quan hệ từ rất lâu đời trước đây.
Tôi lúng túng và tự lẩm bẩm trong im lặng: – Nếu vậy, tại sao tôi không thể nhớ gì cả? Nếu có những kiếp trước, tôi phải nhớ như ông chứ? Ông Kris cười và trả lời: – Có những sự việc xảy ra gần đây mà ông còn không nhớ, làm sao ông có thể nhớ những chuyện từ những kiếp trước xa xôi? Tôi cảm thấy khó chịu và không muốn chấp nhận: – Liệu tôi có phải là người đầu óc kém đi? Ông Kris nhìn tôi một cách tập trung và giải thích: – Ông ơi, đầu óc hiện tại của ông chỉ chứa đựng những kiến thức trong cuộc sống này. Nó có những giới hạn riêng. Ông không thấy sao? Có khi ông nhớ được một số sự việc xảy ra gần đây, có khi ông quên. Có khi ông nhớ được một số sự việc từ vài tháng, vài năm trước, nhưng cũng có khi ông quên.
Khi mới sinh ra, trí não của ông chưa phát triển nên ông không nhớ được những việc xảy ra khi chào đời hay khi nằm trong bụng mẹ. Khi trí não của ông bắt đầu phát triển, ông nhớ được vài việc xảy ra khi còn thơ ấu, từ khoảng hai hay ba tuổi gì đó. Tuy nhiên, đó chỉ là một vài hình ảnh mơ hồ, những mảnh ký ức vụn vặt thôi vì trí não của ông lúc nhỏ còn non kém. Khi ông lên sáu, bảy tuổi thì ông nhớ được nhiều hơn vì trí não đã phát triển đầy đủ. Tùy theo sự phát triển của trí não và thói quen trong cuộc sống mà người ta nhớ được một số việc nhưng cũng dễ quên đi một số sự việc, dữ kiện khác. Trí não có giới hạn của nó, do đó chúng ta khi nhớ, khi quên. Khi già yếu, trí não không hoạt động hữu hiệu thì người ta quên nhiều hơn nhớ. Nhưng tất cả kinh nghiệm, tư tưởng, lời nói và hành động đều được lưu trữ lại ở một “trí não” khác và nó luôn luôn theo cùng ông qua những kiếp sống khác nhau.
Tôi tự hỏi:
Làm sao tôi có thể ghi nhớ những sự kiện từ kiếp trước? Ông Kris trả lời thong thả: – Thỉnh thoảng, bằng cách thôi miên tiềm thức, chúng ta có thể kết nối với “trí não” kia và nhớ lại một số chi tiết, nhưng thôi miên cũng có giới hạn. Một số người có thể nhớ lại tiền kiếp, nhưng chỉ là những trải nghiệm mờ nhạt, những mảnh vụn của ký ức chứ không rõ ràng. Việc nhớ lại tiền kiếp đòi hỏi sự tu luyện công phu mà ông đã từng rèn luyện trong quá khứ, và ông mới nhớ lại một kiếp sống ở Atlantis khi nhìn thấy cây gậy ngọc này.
Tôi bất ngờ: – Làm sao tôi có thể nhớ lại những kiếp sống trước đây? Ông Kris nhìn thẳng vào tôi và nghiêm túc nói: – Những điều tôi sắp tiết lộ có thể khiến ông cảm thấy kỳ lạ vào thời điểm này.
Tôi không ép ông chấp nhận sự thật của những gì tôi nói, bởi ông chỉ có thể xác định được điều đó khi trải qua và tự mình khám phá chúng là đúng hay sai.
Thấy tôi do dự, ông Kris giải thích thêm: – Ông không tin những điều tôi sắp nói đây, trừ khi ông thấy chúng phù hợp với suy nghĩ của mình. Bây giờ ông có thể coi đó như là một lý thuyết, nhưng ông phải tự trải nghiệm để đến kết luận và tin tưởng vào chính mình.
Tôi tự hỏi: – Nhưng tôi phải làm thế nào? Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra hôm qua? Tại sao chúng ta lại gặp nhau tại đây? Phải chăng đã có sự thu xếp từ trước? Ông Kris nở nụ cười: – Đúng thế, đây không phải là một sự tình cờ đâu. Đã có những nhân duyên từ trước thu xếp cho cuộc gặp gỡ này. Thật ra việc này đã được sắp đặt từ lâu rồi và đến nay mới xảy ra .
Tôi bất ngờ: – Nhưng ai đã sắp xếp công việc này chứ?
Ông Kris từ tốn trả lời: – Chính ông là người đã thu xếp việc này từ nhiều thế kỷ trước .
Tôi hoảng sợ: – Tại sao tôi không có kiến thức về điều này? Tại sao lại là từ hàng thế kỷ trước? Ông Kris gật đầu: – Hiện tại, bạn không biết rõ nhưng chúng ta đã quen biết nhau từ hàng thế kỷ trước. Tuy nhiên, lúc này ông chưa khôi phục được khả năng nhớ lại tiền kiếp, nhưng sẽ có một ngày ông sẽ biết những điều ông muốn biết.
Tôi bất ngờ và khó chịu, cảm thấy một chút tự ái, khiến tôi không thể giữ được sự bình tĩnh. Tôi đặt câu hỏi: – Nhưng có bằng chứng nào cho thấy rằng có những kiếp sống trước đó hoặc con người đã trải qua nhiều kiếp khác nhau? Ông Kris mỉm cười, bình tĩnh chỉ vào chiếc gậy ngọc: – Vật này có thể giúp bạn trải nghiệm một kiếp sống cho đến khi bạn khôi phục lại khả năng sẵn có trong bạn.
Tự nhiên tôi không muốn tâm trí của mình bị quyến rũ hoặc điều khiển bởi một vật lạ, vì vậy tôi cảnh giác: – Tôi không biết gì về cây gậy này. Ông có thể giải thích cho tôi tại sao ông lại có cây gậy này không? Ông Kris gật đầu: – Dù tôi nói ra ông cũng không tin nhưng cuối cùng ông cũng sẽ biết.
Kris đi thong thả đến chiếc hộp, đưa cây gậy ngọc cho tôi. Tôi do dự không muốn nhận nó. Tuy nhiên, tôi không hiểu sao lại đưa tay ra như có một lực hút. Cây gậy tự nhiên phát ra ánh sáng, các viên ngọc cũng phát ra những tia sáng khác nhau mà quen thuộc. Khi tôi chạm vào cây gậy, tôi bị cuốn vào và nắm chặt nó. Tôi cảm nhận được một luồng điện lạ từ cây gậy truyền qua tay, chạy dọc toàn thân khiến tôi mất ý thức. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng cảm thấy mình bị thu hút vào luồng ánh sáng kỳ lạ của cây gậy…
Ông Kris nhẹ nhàng nói: – Hãy để tự nhiên diễn ra, nó sẽ giúp ông trở về quá khứ, vì chỉ có mình ông mới có thể sử dụng cây gậy này thôi.
Tâm trí tôi trở về ký ức về cuộc sống ở Atlantis như đêm qua, nhưng lần này tôi cảm thấy bị ám ảnh bởi mong muốn chiếm đoạt người thánh nữ xinh đẹp trong đền thờ Thái Dương. Đây không phải là tình yêu, chỉ là lòng tham của một người quyền uy trong xã hội, cho rằng mình có quyền làm bất cứ điều gì mình muốn. Tất nhiên, việc chiếm đoạt một thánh nữ là không thể vì họ thuộc phạm vi “bất khả xâm phạm”. Với tôi, Kor là một điều “cấm kỵ” mà ngay cả người có quyền lực như tôi cũng không thể chiếm đoạt được. Khó có thể diễn tả được cảm giác này vì đầu óc tôi lúc đó bị xé xác bởi ý nghĩ hung ác và ích kỷ, hoàn toàn khác biệt so với tâm trí hiện tại của tôi.
Trong lúc tôi đang bị cuốn vào những ý tưởng dục vọng đó, cha tôi xuất hiện bất ngờ với vẻ mặt nghiêm túc và lạnh lùng, ông ra lệnh: “Hãy đi theo tôi ngay lập tức, chúng ta có công việc cần làm ngay bây giờ.”
Nhìn vào khuôn mặt và ánh mắt quyết đoán của cha, tôi bất ngờ vì ông luôn giữ bình tĩnh, ngay cả trong những tình huống khẩn cấp. Tôi tò mò hỏi: – Chúng ta sẽ đi đâu vậy cha? Cha không trả lời mà chỉ ra dấu cho tôi đi theo. Rõ ràng, ông đang suy nghĩ về một vấn đề rất nghiêm trọng.
Cha tôi dẫn tôi đi qua những con đường rộng lớn dẫn đến cung điện của Hoàng đế Heracles xứ Arya. Đây không phải là lần đầu tôi đến đây, vì thỉnh thoảng cha cũng đưa tôi đi cùng khi vào cung.
Ông thường tham gia vào những sự kiện quan trọng trong triều với tư cách là thành viên của Hội đồng Trưởng lão xứ Arya, và đôi khi ông cũng cho tôi đi theo.
Chúng tôi tiến vào một căn phòng rộng lớn, tôi nhận thấy một số thành viên của triều đình trong Hội đồng Trưởng lão cũng có mặt, nhưng họ trông khá khép kín.
Tất cả mọi người đều im lặng, đợi Mar bắt đầu kể câu chuyện.
Mar là một quan thiên giám và cũng là một nhà tiên tri nổi tiếng ở Arya. Ông ta nghiêm nghị nói rằng hiện nay chúng ta đã thấy rõ những dấu hiệu bất thường mà các nhà tiên tri trước đây đã cảnh báo về hiện tượng địa cầu chuyển trục. Các giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương cũng xác nhận rằng luồng từ lực của địa cầu đã di chuyển theo phương hướng bất lợi. Trong nhiều năm qua, thời tiết ở khắp mọi nơi đã thay đổi với những trận hạn hán kéo dài nhiều tháng, gây thiệt hại cho mùa màng. Có những cơn bão mạnh gây lụt khắp nơi và có những đám cháy rừng kéo dài hàng tháng, khiến nhiều súc vật chết hàng loạt. Còn về dịch bệnh, ngay cả các y sĩ tài giỏi nhất cũng không thể khống chế, khiến số lượng người chết không đếm xuể.
Cuộc chiến giữa xứ Og và Poseida đang leo thang, với mức độ quyết liệt ngày càng tăng. Mối đe dọa xâm lăng Arya cũng ngày càng gia tăng.
Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, sự việc phải xảy ra.
Chỉ trong vài ngày nữa, chúng ta sẽ phải thực hiện kế hoạch trù liệu đã được sắp xếp trước đó, đưa một số người đã được chọn đến các địa điểm an toàn.
Từ lâu, những nhà tiên tri của Atlantis đã cảnh báo về sự thay đổi của trục địa cầu. Họ dự đoán rằng sẽ xảy ra những cơn bão mạnh hoặc động đất có thể đẩy Atlantis đến tình trạng diệt vong. Mặc dù không phải là thông tin mới, nhưng lần này, tôi cảm thấy có điều gì đó khác thường qua giọng điệu của quan thiên giám.
Heracles, vị vua, tuyên bố: “Hãy xác nhận những dự đoán của bạn để mọi người có thể sẵn sàng.”
Mar trả lời với sự nghiêm trọng hiển hiện trong giọng nói: – Tôi đã quan sát rất kỹ những thay đổi của ảnh hưởng từ các tinh tú xuống địa cầu và kiểm tra những lời tiên tri trong quá khứ. Tôi và các giáo sĩ hoàn toàn đồng ý rằng chỉ trong vài ngày tới sẽ xảy ra một biến động vô cùng to lớn, vượt xa sức tưởng tượng.
Hoàng đế Heracles suy nghĩ một cách trầm tĩnh, sau đó nói: – Không chắc rằng mọi thứ sẽ diễn ra như dự đoán. Có thể có những thay đổi không? Mar gật đầu: – Tôi đã xem xét kỹ sự di chuyển của các hành tinh và tôi quyết định rằng một thảm họa chắc chắn sẽ xảy ra, như đã được tiên tri từ nhiều năm trước.
Heracles, hoàng đế, gật đầu và nói: “Nếu vậy, chúng ta cần thực hiện ngay kế hoạch đưa những người đã được chọn đến các bến an toàn. Hôm nay, tôi muốn xem xét lại danh sách này một lần nữa và tiến hành ngay để không bị trễ.”
Cha tôi hỏi: “Các ông đã sẵn sàng với danh sách chưa?” Sau đó, ông nói nhỏ với tôi rằng nếu lời tiên tri đúng, Atlantis sẽ phải đối mặt với một trận cuồng phong khủng khiếp có thể gây thiệt hại lớn. Để bảo vệ văn minh của chúng ta, Hoàng đế Heracles đã chọn một số người đại diện cho Atlantis để đưa họ đến những vùng an toàn hơn trên những chiếc thuyền lớn. Trên mỗi chiếc thuyền, ngoài thủy thủ đoàn, có những người đã được chỉ định nhiệm vụ cụ thể: giáo sĩ, chiêm tinh gia, khoa học gia, kiến trúc sư, nghệ sĩ, y sĩ, kỹ sư và thánh nữ. Những người này đã được Hội đồng Trưởng lão chọn từ trước. Hôm nay là ngày quyết định.
Tôi hỏi:. – Nếu biết trước có tai ương như vậy, tại sao chúng ta không ra đi hết mà chỉ chọn một số người? Cha tôi lắc đầu: – Không ai biết chắc rằng điều này sẽ xảy ra theo lời tiên tri. Nếu không xảy ra, thì sao? Và dù muốn đi, chúng ta cũng không đủ thuyền bè để đưa tất cả mọi người đến những nơi đó, nên đa số chúng ta tự nguyện ở lại, chấp nhận số phận nếu tai họa xảy ra.
Các vị trưởng lão lần lượt xuất hiện để trình bày danh sách những người được lựa chọn để Hoàng đế Heracles xem xét cuối cùng. Với vai trò là trưởng lão đứng đầu trường y, cha tôi có trách nhiệm lựa chọn những người này.
Y sĩ của tôi đã được sắp xếp lên thuyền. Nhưng khi danh sách được công bố, tôi không thấy tên mình trong đó. Tôi không hiểu tại sao lại như vậy. Tôi có kiến thức cao hơn những người có tên trong danh sách. Đang trong tâm trạng bất mãn, tôi muốn hỏi cha tôi nhưng một trưởng lão khác đã đến và công bố danh sách các thánh nữ được chọn. Tôi bị sốc khi thấy Kor, người phụ nữ mà tôi muốn chiếm đoạt, có tên trong danh sách đó. Tôi cảm thấy mất mát và thất vọng, điều này khiến tôi trở nên khó chịu và tức giận.
Sau khi xem qua danh sách, Hoàng đế Heracles ra lệnh cho viên tướng gần đó: “Hãy liên lạc ngay với những người có tên trong danh sách này và đưa họ đến địa điểm đã được lên lịch. Các con thuyền phải khởi hành ngay, không được trì hoãn.”
Thuyền trưởng và thủy thủ đoàn đã nắm rõ nhiệm vụ của mình. Đây là công việc quan trọng, cần phải thực hiện một cách chính xác và đúng quy trình.
Dù tôi cảm thấy không hài lòng với việc cha không chọn tôi, nhưng tại thời điểm đó, tôi lại bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng người thánh nữ mà tôi muốn chiếm đoạt sẽ phải rời xa đây, điều này đồng nghĩa với việc tôi không thể đạt được ước muốn của mình. Ý nghĩ chiếm đoạt “trái cấm” đó đã hoàn toàn chi phối tâm trí tôi. Tôi đã bị cuốn vào vô số mưu tính, không còn để ý đến xung quanh cho đến khi buổi họp kết thúc và mọi người rời khỏi cung điện.
Lúc đó, cha nhìn tôi với ánh mắt khó hiểu, sau đó giải thích: – Ta biết con sẽ hỏi tại sao ta không chọn con vào danh sách những người được đưa đi xa. Nhưng những người được lựa chọn sẽ có tác động đến tương lai của Atlantis, ta không thể đưa tên con vào đó được.
Tôi cảm thấy rất không hài lòng: – Cha có nghĩ rằng con không xứng đáng hơn những người đã được chọn sao? Hay cha nghĩ rằng kiến thức của con không bằng những người khác? Cha tôi lắc đầu: – Không phải vậy, kiến thức của con vượt trội hơn những người đó, nhưng chúng ta không muốn mang con đi nên không chọn con.
Tôn giáo mà con đang theo đuổi đến bờ bến an toàn kia.
Một cú sét đánh trúng tai! Tôi không ngờ cha tôi lại biết tôi đang học những nghi thức bí mật của tôn giáo xứ Og.
Trong khi tôi vẫn đang lúng túng không biết nói gì, ông tiếp tục: – Ban đầu, chúng tôi đã đưa tên con vào danh sách này. Tuy nhiên, sau khi được các trưởng lão duyệt xét trước khi trình lên Hoàng đế Heracles, chúng tôi đã nhận được báo cáo về việc con đã bí mật theo đuổi những nghi thức của các giáo sĩ xứ Og. Chúng tôi biết con có lòng ham học hỏi, nhưng việc sử dụng những động lực mà con không thể kiểm soát này sẽ gây ra những hậu quả không thể đoán trước. Chúng ta không thể để cho tôn giáo ma quái đó ảnh hưởng đến tương lai tươi sáng của nền văn minh mà chúng ta sẽ xây dựng ở một nơi an toàn.
Cha tôi nghiêm giọng và nói rằng con đã vi phạm một nguyên tắc quan trọng của xứ này và phải chịu trách nhiệm về việc con làm. Con đã bị bắt giam ngay lập tức, nhưng cha đã xin phép để nói chuyện riêng với con. Đối với cha, con không xứng đáng là người xứ Arya nữa và cây gậy ngọc mà con sở hữu sẽ phải hoàn trả lại cho cha.
Cha tôi ra dấu cho hai người lính đang đứng gần đó bước lại, tôi cảm thấy bị chấn động bởi sự kiện bất ngờ này. Tuy nhiên, tôi không chần chừ mà ngay lập tức rút cây gậy ngọc ra và hung hãn vung nó lên trước mặt để đe dọa bất kỳ ai muốn tiếp cận. Dù cây gậy này được sử dụng để chữa bệnh, nhưng nó cũng có thể trở thành một vũ khí toàn năng, cho phép người sử dụng tách rời nguyên tử trong cơ thể người khác.
Tất nhiên, những binh lính kia đã nhận ra sức mạnh đáng sợ của cây gậy ngọc. Dù có vũ khí sẵn có trong tay, họ không dám tiến gần tôi, chỉ dám bao vây từ xa. Tôi bất ngờ quay người lại, sử dụng cây gậy để mở đường và thoát khỏi cung điện. Cha tôi la lên, cố gắng ngăn cản, nhưng tôi vẫn quyết tâm chạy thẳng, để lại phía sau đám lính đang đuổi theo. Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể chạy nhanh đến vậy.
Tôi vội vã chạy qua những con đường uốn lượn cho đến khi dừng lại trước ngôi nhà mà tôi thường đến để học về nghi thức tế lễ của dân tộc.
Sau khi tôn giáo xứ Og. Beru mở cửa, tôi không thể kìm nén nổi giận dữ trong lòng và đã chia sẻ với hắn về kế hoạch của Hoàng đế Heracles.
Sau khi nghe xong, Beru không nhịn được cười: – Việc địa cầu thay đổi trục đưa tai họa đến Atlantis không phải là điều mới mẻ. Các nhà tiên tri Atlantis đã từng đề cập đến điều này từ lâu.
Từ lâu, các quốc gia đã có kế hoạch đưa con người đến các lục địa chưa được khai phá để định cư. Tuy nhiên, hiện tại không có quốc gia nào thực hiện được điều này do cuộc chiến giữa Og và Poseida đang diễn ra quyết liệt. Có thể Hoàng đế Heracles muốn kiểm soát việc di cư này vì chỉ những người Arya mới được chọn để đến đó, theo quy định và tôn giáo của họ, không phải của Og hay Poseida.
Tôi bị ngạc nhiên bởi kiến thức của hắn. Beru nói tiếp: – Những lời tiên tri này đã được đề cập trong nhiều năm qua, không có gì mới cả. Hành động vội vàng của Hoàng đế Heracles khiến tôi nghĩ rằng ông ta có một âm mưu khác, phải không? Beru suy ngẫm một lúc, sau đó gật đầu như đã tìm ra câu trả lời: – Cuộc chiến giữa Og và Poseida sẽ lan rộng đến Arya. Kết quả của cuộc chiến này sẽ quyết định số phận của Arya. Từ lâu, Arya đã là một vấn đề gai góc đối với Og và Poseida vì sự khác biệt về tôn giáo, với Thái Dương được thờ cúng và những quy tắc nghiêm ngặt, khác hoàn toàn với tôn giáo của Og và Poseida.
Người dân Arya luôn tự hào về sự thuần khiết của tộc người mình, không bao giờ kết hợp với những người khác. Với chiến tranh đang lan rộng khắp nơi, nếu Og hoặc Poseida xâm lăng Arya, liệu triều đại của Heracles có thể tồn tại? Có lẽ Heracles đã nghĩ đến việc dời đô đi nơi khác để bảo vệ ngôi vị của mình. Lý giải của Beru đã giải đáp thắc mắc của tôi.
Trong trận chiến gần đây, đội binh của Og đã tạo ra những vũ khí độc đáo, khiến họ chiếm ưu thế.
Nếu Poseida không thể giữ được, Arya cũng không thể tránh khỏi kết cục tương tự. Cuối cùng, người dân xứ này sẽ bị bắt làm nô lệ hoặc biến thành một giống người khác.
Tôi run giọng: – Nếu Hoàng đế Heracles âm mưu dựa vào tiên tri vu vơ để rời bỏ xứ sở và tiếp tục cai trị ở một nơi khác, thì mọi người, kể cả những vị trưởng lão, đã bị lừa dối bởi kế hoạch của hắn. Thay vì đi một mình, hắn đã đưa theo một số người có khả năng xây dựng một xã hội mới tại một nơi an toàn. Hơn nữa, hắn còn kéo theo một số giáo sĩ và thánh nữ từ đền thờ Thái Dương để lan truyền tôn giáo này. Đúng là một âm mưu độc ác.
Beru đồng ý với việc phụ họa theo cách sau: Khi Heracles và những người hâm mộ của ông rời khỏi Arya, cuối cùng nơi này sẽ thuộc về Og hoặc Poseida và tôn giáo thờ Thái Dương sẽ bị loại bỏ. Lúc đó, chúng ta có thể mong muốn bất cứ điều gì.
Không thể kìm nén nữa: – Thánh nữ Kor đã được đưa đi xa, còn tôi thì không. Và cô ấy lại là người mà tôi đang khao khát.
Beru cười to: – Thật không ngờ anh lại thích cô thánh nữ đó? Nhưng cũng dễ hiểu thôi, cô ấy thật xinh đẹp! Nếu muốn, tại sao chúng ta không lên kế hoạch để bắt cô này về để hầu hạ một thời gian ngắn. Trong khi Hoàng đế Heracles bận rộn với việc đưa hàng trăm người lên thuyền, không ai để ý đến một người bị lạc.
Beru là một người rất thông minh và sáng tạo, chỉ cần một cái nhìn thoáng qua, anh ta đã nảy ra một kế hoạch táo bạo. Theo kế hoạch đó, một viên quan trong triều đình sẽ liên lạc với những người có tên trong danh sách để đưa họ ra đi. Mặc dù đang bị truy nã, tôi vẫn nhanh chóng tìm được người đảm nhận nhiệm vụ đưa các thánh nữ lên thuyền.
Sau khi dùng một liều thuốc gây mê, tôi đã khiến hắn chìm sâu vào giấc ngủ, sau đó lấy cắp binh phục và ấn tín của hắn để tiến tới đền Thái Dương.
Đền thờ Thái Dương của các thánh nữ được coi là một nơi linh thiêng, ít ai được phép đến, đặc biệt là đàn ông. Tuy nhiên, bà thánh trưởng đã được thông báo trước nên không hỏi gì mà đưa tôi, trong trang phục của viên quan triều đình, tiến thẳng vào một căn phòng phía sau đền thờ. Những thánh nữ có tên trong danh sách được đưa vào gặp tôi.
Bà thánh trưởng nhắc nhở: – Các con đã được ta đào tạo từ nhiều năm qua cho công việc này.
Đến thời điểm này, đã đến lúc để các con thực hiện. Người này có trách nhiệm dẫn dắt các con và các con phải tuân thủ mọi chỉ dẫn từ người này.
Tôi nói: – Các chiếc xe đón các cô đã sẵn sàng để lên đường. Tôi sẽ phân công người đi xe nào vì mỗi chiếc xe sẽ đưa các cô đến những địa điểm khác nhau, nơi những con thuyền đang chờ đợi.
Những nữ thánh đã biết trước nhiệm vụ của mình, không ai tỏ ra ngạc nhiên. Họ nhanh chóng sắp xếp hành trang và đi theo tôi. Khi bước ra khỏi đền thờ, tôi cảm thấy lo lắng nhưng cũng phấn khích như một con thú săn mồi. Mặc dù tôi cố tự chủ, nhưng đầu óc tôi bỗng nhiên trở nên rối loạn, như cảm nhận được một điều gì đó bất thường sắp xảy ra.
Trước mắt tôi là những chiếc xe đã đợi sẵn trong bóng tối của đêm.
Tôi nhìn thấy Beru đang ngồi chờ trên một chiếc xe gần đó. Dưới sự hướng dẫn của tôi, các nữ thần lần lượt bước lên những chiếc xe đã được chỉ định. Trong khi những chiếc xe khác đưa các nữ thần đi theo kế hoạch tiến về bờ biển để lên thuyền, chiếc xe của Beru lại đưa Kor đi ngược hướng đến căn nhà riêng của hắn.
Vì biết các thánh nữ đều cam kết giữ mình trong sạch, thà chết còn hơn là chịu khuất phục bất kỳ sức mạnh nào, nên theo kế hoạch của Beru, tôi đã tổ chức một buổi lễ tà thuật đầy sáng tạo với sự tham gia của một số nam nữ. Trong buổi lễ, chúng tôi đã sử dụng rượu và các chất dược đã được chuẩn bị trước để tối đa hóa hiệu quả. Thánh nữ Kor đã được đưa xuống một căn hầm kín riêng biệt, được đục sâu vào vách núi, và bị ép uống một ly rượu kết hợp với máu súc vật và các chất kích thích đặc biệt, khiến cô không thể tự chủ hay kháng cự tôi nữa. Sau khi uống ly rượu đó, Kor chỉ còn yếu ớt phục tùng con thú dữ đang bùng phát dữ dội trong tôi.
Tôi không hiểu tại sao lúc đó tôi lại có thể thực hiện một hành động đồi bại và thú vị như vậy, từ việc chinh phục đến quấy rối một cô gái trong trắng và ngây thơ, trong niềm vui sướng và hân hoan. Nhưng lúc đó, tôi không phải là chính tôi ngày hôm nay, mà là một người hoàn toàn khác, một kẻ tham lam, ích kỷ và đầy thú tính, giống như hầu hết đàn ông Atlantis thời đó. Và cho đến sáng hôm sau, Kor đã ở bên cạnh tôi.
Khi Hoàng đế Heracles và quân sĩ hộ tống những người được chọn rời khỏi thành phố, một đội binh “nửa người, nửa thú” của xứ Og đã lén vào Arya.
Các “con của Belia” đều mặc áo giáp được làm từ một loại kim loại đặc biệt, gươm giáo của họ không thể đâm thủng và có thể tấn công binh lính phòng thủ của xứ Arya. Không lâu sau đó, đám binh lính hung dữ đã chiếm lĩnh Arya và dân chúng trở thành những miếng mồi ngon cho đội quân hung hãn này.
Trong khi chiến tranh lan rộng khắp Arya, chúng tôi vẫn lạc quan và không hề hay biết về những sự kiện xảy ra bên ngoài. Sáng hôm đó, tôi tỉnh giấc với tâm trạng mờ nhạt sau một đêm truy hoan điên cuồng, khi chúng tôi đã uống rượu pha máu và dùng các loại thuốc khi thực hiện các nghi thức ma thuật với người thánh nữ đáng thương. Mặc dù tôi đã đạt được những gì tôi mong muốn, nhưng tôi lại ngạc nhiên khi cuối cùng nó không mang lại cho tôi cảm giác mà tôi từng ao ước.
Việc chiếm đoạt người thánh nữ xinh đẹp trong trạng thái mê man không thể chống cự này đã khiến tôi cảm thấy dằn vặt và khó chịu, khác biệt so với những lần trước đây tôi có quan hệ với những cô gái khác. Tôi lảo đảo bước ra khỏi căn hầm tối đầy những thân thể trần truồng đang ngủ say sau cuộc truy hoan, và bỗng nghe thấy tiếng kêu la thảm thiết vang vọng từ bên ngoài đường phố.
Khi tôi ra khỏi nhà, tôi ngay lập tức chứng kiến một cảnh tượng đáng sợ với những xác chết bị nằm rải rác, cùng với lũ quái vật có hình dạng kỳ quái đang tàn phá và ăn thịt những người bị tấn công. Khắp nơi đều bốc cháy.
Đám quân lính tàn ác từ xứ Og đang dữ dội tấn công và giết hại những người dân vô tội.
Một đám binh lính xứ Og liền lao tới khi thấy tôi. Biết không thể chống cự, tôi vội vàng chạy vào một con đường hầm. Đám quái vật ngay lập tức đuổi theo. Tôi chạy đến nơi Kor đang nằm, nhặt lấy một cây gậy ngọc làm cho nó phát ra những tia sáng chói lọi. Đám binh lính hung dữ ngay lập tức lùi lại vì chúng biết rõ sức mạnh đáng sợ của vũ khí này.
Một khi va chạm với cây gậy này, các hạt nguyên tử trong cơ thể có thể bị phá vỡ ngay lập tức.
Tôi chưa từng trải qua cảm giác sợ hãi như lúc đó, dù tôi có vũ khí trong tay. Nhưng khi nhìn thấy đám binh lính lông lá xồm xoàm kia, tôi không cảm thấy sợ.
Một người có vẻ như là người chỉ huy chăm chú nhìn cây gậy ngọc, sau đó ra lệnh: – Các bạn hãy tránh xa nó và đừng chạm vào nó.
Dù lính cố gắng né tránh để tôi đi, nhưng họ vẫn nhìn chằm chằm những người tham dự buổi tiệc, họ đang sợ hãi rút vào góc nhà. Tôi quay lưng, dựa vào tường, cầm chặt cây gậy, từng bước một đi chậm, lách qua kẽ hở mà lính đã nhường cho tôi để thoát thân. Lúc đó, khi quay lại, tôi bắt gặp ánh mắt sợ hãi của Kor nhìn tôi như van xin. Nếu tôi ra khỏi căn hầm, Kor và những người trong đó sẽ chắc chắn trở thành nạn nhân thảm thương của quái vật đó.
Một cảm giác thương xót kỳ lạ bất ngờ tràn đầy trong tôi, không thể giải thích được. Dù thân xác của người Atlantis lúc đó đầy hung bạo, tham lam và ích kỷ, nhưng tình thương và lòng trắc ẩn vẫn là những cảm giác mới lạ, chưa từng có. Như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy, tôi quay người và nhanh chóng kéo Kor theo, trong khi tay kia vẫn nắm chặt gậy sẵn sàng đánh trả.
Đám binh lính hung dữ nhìn tôi với ánh mắt đen tối, đầy đe dọa khi tôi cầm Kor đi trước mặt. Tuy nhiên, chúng không dám tấn công vì biết rằng nếu chạm vào cây gậy này, thân thể chúng sẽ tan thành tro bụi. Khi tôi rời khỏi nhà Beru, tôi không biết đi đâu vì khắp nơi đều bốc cháy, khói đen bao phủ trời, và khắp nơi đều vang lên tiếng kêu thảm thiết của những người bị cuốn vào cuộc chiến.
Trong giây phút kinh hoàng, ý muốn bỏ mặc Kor và tìm cách thoát ra đã xuất hiện trong tâm trí tôi, nhưng Kor vẫn nắm chặt tay tôi không buông. Chỉ vài ngày trước đây, Kor là một điều mà tôi mong muốn nhưng bây giờ, người thánh nữ này không còn có ý nghĩa quan trọng đối với tôi nữa.
Tôi đã đạt được những gì tôi mong muốn, đã thỏa mãn và bây giờ là lúc tôi phải tìm cách tồn tại, bảo vệ cuộc sống.
Đối với người Atlantis, vô cảm là điều bình thường vì họ vẫn sống theo bản năng man rợ chưa phát triển về tình cảm. Mặc dù Kor chỉ im lặng đi theo, nhưng khi nhìn thấy nét mặt sợ hãi tuyệt vọng của cô, tôi hiểu rằng nếu bỏ mặc Kor, cô ấy sẽ không thể thoát khỏi nanh vuốt của đám quái vật kia. Đột nhiên,
Tôi cảm thấy ngực mình rung động một cách kỳ lạ mặc dù không hiểu rõ đó là cảm xúc gì. Mặc dù vậy, tôi vẫn nắm chặt tay Kor và cùng nhau tiếp tục chạy đi.
Trên hành trình, đôi khi tôi phải đối mặt với một số lính xứ Og và đã đánh bại họ bằng cây gậy ngọc. Đây là lần đầu tiên tôi giết người, nhưng lúc đó tôi không có ý thức về hành động của mình, chỉ muốn tự bảo vệ. Chúng tôi vượt qua những con phố đầy khói lửa, xác người và máu chảy ròng ròng. Nỗi sợ hãi ngày càng tăng lên, làm tôi căng thẳng đến mức sắp nổ tung, nhưng tôi vẫn nắm chặt tay Kor không buông.
Tôi tình cờ gặp một nhóm binh lính Arya đang bảo vệ một số địa điểm quan trọng. Họ cho biết rằng hầu hết các lãnh đạo đã rút lui vào đền Thái Dương trên đỉnh núi, nơi được coi là an toàn. Vì vậy, tôi quyết định dẫn theo Kor và chạy thẳng lên đó.
Khi ad bước vào đền Thái Dương, ad thấy cha ad và các trưởng lão, họ vẫn yên lặng ngồi như đang chờ đợi điều gì đó. Mặc dù đã thấy ad, cha ad vẫn không nói gì. Tuy nhiên, bà thánh trưởng của đền kinh ngạc khi thấy Kor đang lơ đãng trong trang phục tơi tả, bà nhanh chóng tiến lại gần. Lúc đó, Kor tuột ra khỏi tay ad, ngã gục xuống đất khóc nức nở. Không khí trong đền đột ngột trở nên ngột ngạt vì tiếng khóc ấm ức của Kor.
Tôi bước lúc này lúc khác đến bên cạnh cha tôi. Ông ngồi yên lặng, không biểu lộ cảm xúc. Trước khi tôi kịp nói gì, một tiếng nổ vang lên, làm rung chuyển cả mặt đất. Đền thờ cũng bị rung động mạnh, bụi cát bay tung tóe. Tôi hoảng sợ không biết phải làm gì, nhưng cha tôi chỉ tay ra cửa sổ và nói: – Đến lúc rồi! Tôi hiểu ngay ý ông. Cơn địa chấn đã bắt đầu như đã được dự đoán.
Đền Thái Dương được xây dựng trên đỉnh núi cao, từ đó có thể nhìn thấy toàn bộ kinh đô Arya ở dưới. Từ cửa sổ trên cao, tôi chứng kiến một dòng nước khổng lồ từ biển dâng lên, cuốn trôi những ngôi nhà ở dưới. Cảnh tượng thật kinh hoàng. Dòng nước dâng lên mạnh mẽ, ngập tràn khắp thành phố, đồng bằng, làm đổ gãy cây cối, cắt đứt gốc dưới sức mạnh của nó. Sóng lớn như núi, đất đai rung chuyển và nứt vỡ thành từng mảnh, những ngôi nhà khắp nơi bị tàn phá.
Sụp đổ, ngọn lửa đỏ rực trên bầu trời, mảnh đất vỡ nát bay tung tóe khắp nơi. Tiếng kêu la than thảm của con người hòa quyện với những tiếng sấm nổ vang vọng trên trời.
Tôi hoảng sợ, cố gắng tìm cách thoát ra. Cha tôi nói: – Không thể chạy thoát được. Đến lúc tất cả phải kết thúc.
Chúng ta đã có kiến thức về điều này từ trước, tiếc là con không lắng nghe lời mà phạm vào những điều bị cấm.
Khi ông không nói hết câu, mặt đất tiếp tục rung chuyển mạnh mẽ. Các cây cột đá chống đỡ đền thờ cũng chuyển động theo. Tôi lặng người vì sợ hãi. Chỉ trong chốc lát, mái đền có thể sụp xuống và làm nát mọi vật bên dưới. Nước triều cũng sẽ dâng lên và chìm sâu tất cả trong dòng nước.
Lúc đó, bà thánh trưởng lao đến gần tôi và hét lớn: “Tên đồ tể, con đã làm gì với đứa con của ta? Nó đã thoát khỏi tai họa này rồi, sao con dám…” Bà không thể hoàn thành câu vì đất đá bay lên mù mịt và tiếng gầm rú của dòng nước đã che lấp giọng nói của bà. Tôi nhìn thấy các trưởng lão đang nhìn chằm chằm vào tôi, tiếng la mắng của bà thánh trưởng bị chìm trong tiếng gầm rú của dòng nước hung dữ đang tràn vào đền thờ.
Trong tôi, có một sự thay đổi đáng ngạc nhiên, những cảm xúc mới mẻ mà trước đây tôi chưa từng trải qua bắt đầu nảy nở.
Một cảm giác đồng thời thương xót và hối hận, dù tôi chưa thể đặt tên.
Kor vẫn nằm phủ phục dưới nền đá, không quan tâm đến luồng nước của trận đại hồng thủy đang tràn vào đền.
Như có một sức lực kỳ lạ thúc đẩy từ bên trong, tôi nhanh chóng tiến đến gần người phụ nữ thánh thiện của tôi. Trong khi mọi thứ xung quanh đổ nát dưới sức tàn phá của trận động đất, tôi quỳ xuống một chân, cúi thấp gần Kor và nắm chặt tay nàng, thì thầm một câu mà có lẽ chưa từng có trong ngôn ngữ của chúng tôi ở Atlantis: “Kor ơi! Tôi rất tiếc nuối. Tôi xin lỗi nàng! Tôi…”
Trước khi tôi kịp thốt lên những điều trái tim muốn nói, ngôi đền đã đổ sụp xuống, hủy hoại tất cả mọi thứ dưới chân. Tôi nhìn thấy đôi mắt của Kor, đang nhìn tôi với vẻ lạ lùng, đôi môi cô ấy cố gắng nói điều gì đó nhưng không kịp, vì dòng nước đã tràn vào, cuốn trôi mọi thứ. Tôi cảm thấy tiếc nuối vì Kor không nghe được câu cuối cùng.
Tôi chưa kịp nói hết: “…Ta sẽ không bỏ nàng!” Khi nước tràn vào cổ họng tôi. Tôi cố nắm chặt lấy tay Kor nhưng không thành công, Kor bị luồng nước mạnh cuốn đi mất… Tôi gào thét nhưng không thể phát ra âm thanh… Mọi thứ chìm trong luồng nước xoáy điên cuồng, rồi tôi mất đi sự hiểu biết…
Tôi ngồi trên chiếc ghế bành trong căn phòng khách của ông Kris. Chiếc gậy ngọc đặt bên cạnh đã mất đi ánh sáng. Ông Kris hỏi tôi: “Bạn cảm thấy thế nào?” Tôi bàng hoàng một chút rồi trả lời: “Liệu… Điều này có thể là sự thật không?” Ông Kris im lặng nhìn tôi, không đáp lại. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh nhưng mồ hôi vẫn chảy như mưa. Tôi tự nhủ: “Tại sao lại như vậy? Liệu tôi có thể nhớ lại kiếp trước của mình không? Có phải tôi bị thôi miên hay có một lực lượng nào đó tái hiện quá khứ cho tôi?” Nhưng dù có thôi miên thì không thể nào nhìn thấy mọi thứ rõ ràng như một bộ phim như vậy được. Những người bị thôi miên thường không nhớ gì khi tỉnh dậy, nhưng tôi nhớ rõ từng chi tiết.
Sau một thời gian xúc động, tôi đã bình tĩnh lại và hỏi: – Ông có thể giúp tôi hiểu rõ hơn về điều này không? Đến lúc đó, ông Kris mới trả lời: – Ông đã nhớ lại quá khứ xa xưa khi ở Atlantis, nhưng ông còn sống qua nhiều kiếp khác nữa. Nếu ông muốn, ông có thể nhớ lại những kiếp đó vì ông đã từng làm điều này trước đây.
Tất nhiên hiện tại ông không nhớ đâu, nhưng sau này ông sẽ nhớ.
Tôi tự hỏi: – Nhưng ông có thể giải thích cho tôi việc này được không? Ông Kris suy nghĩ một lát, rồi lên tiếng: – Này ông bạn, cuộc đời chúng ta trải qua hiện nay chỉ là một phần nhỏ của một đời sống kéo dài hàng trăm ngàn năm mà trong đó
Chúng ta học hỏi và thu thập kinh nghiệm để đạt được sự hiểu biết thực sự. Đời sống là một trường học vĩ đại, nơi mà chúng ta học những điều cần thiết. Có những người học nhanh chóng thông qua kinh nghiệm, trong khi có những người không muốn học hoặc học chậm, do đó họ phải tiếp tục học. Trong cuộc sống này, đau khổ là bài học tốt nhất vì chỉ qua đau khổ mà chúng ta chịu học. Nếu mọi thứ quá dễ dàng và thoải mái, ít ai có thể học được gì cả.
Tôi bất ngờ: – Nhưng chúng ta cần học gì? Ông Kris nở nụ cười: – Chúng ta học để hiểu rõ bản thân mình là ai thực sự? Để hiểu mối quan hệ giữa chúng ta và những người khác. Để hiểu sự liên kết giữa chúng ta và vũ trụ. Để hiểu về các quy luật của cuộc sống và vũ trụ.
Trên không gian vô tận, tồn tại những quy tắc vĩnh cửu, không bao giờ thay đổi, nhưng ít ai để ý đến chúng. Trong số những quy tắc quan trọng mà bạn cần phải nắm ngay bây giờ là luật Luân hồi và Nhân quả.
Ông Kris nhìn tôi chằm chằm, sau đó tiếp tục giải thích: – Con người thực chất chỉ là những dạng năng lượng tồn tại trong vũ trụ. Những dạng năng lượng này được gọi tạm thời là “thực thể”, mặc dù cách gọi này không hoàn toàn chính xác. Thực thể sẽ hiện diện dưới nhiều hình thái khác nhau, trải qua nhiều kiếp sống khác nhau, để học hỏi và trưởng thành. Đôi khi, chúng tái sinh thành con người, đôi khi trở thành động vật, đôi khi là các sinh vật tồn tại ở các thế giới khác nhau, nhằm học những bài học mà chúng cần phải trải qua.
Những thực thể này học bằng cách áp dụng luật Nhân quả. Theo luật này, mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của thực thể sẽ tạo ra hậu quả, có thể là tốt hoặc xấu, trong tương lai. Thực thể sẽ phải chịu trách nhiệm về những việc làm của mình dựa trên kết quả này.
Như một học sinh trải qua các kỳ thi, đôi khi học sinh có thể thuộc bài và đậu, nhưng đôi khi lại rớt và phải học lại cho đến khi hiểu được bài học. Điều này được diễn tả qua câu “Gieo giống nào, gặt giống đó”, hay “Trồng cam được cam, trồng ớt được ớt”, hay “Gây nhân nào, gặt quả nấy”.
Tôi hỏi:.
Nếu tôi gây đau cho người khác, tôi sẽ phải chịu đau tương tự từ người khác, đúng không? Ông Kris nhẹ nhàng cười: – Đương nhiên! Như bạn đã biết, vật lý đã chứng minh rằng “Mọi lực tác động đều có lực phản xạ tương ứng”. Tuy nhiên, có khi lực phản xạ xảy ra ngay lập tức, có khi nó ẩn dấu và xảy ra sau này, có thể trong cuộc đời này, có thể trong kiếp sau.
Lúc đó tôi nghĩ đến cô thánh nữ Kor và hối hận về việc mình đã gây ra với cô ấy. Tôi hỏi:. – Nếu thế, một ngày nào đó Kor cũng sẽ trả thù tôi bằng hành động tương tự sao? Ông Kris gật đầu: – Giữa ông và Kor đã có một mối liên hệ trải qua rất nhiều kiếp sống, khi hồi tưởng lại những kiếp sống quá khứ, ông sẽ hiểu rõ hơn .
Khi còn ở Atlantis, ông chỉ là một thực thể ngây thơ, vì vậy tư tưởng và hành động của ông đều tỏ ra ích kỷ và độc ác, như một bản năng tự nhiên, bởi ông đã quen sống trong một môi trường mà sự ích kỷ, độc ác, tham lam và chiếm đoạt là điều bình thường. Trong cuộc sống đó, ông chưa từng trải qua sự thức tỉnh về tình yêu thương, lòng trắc ẩn hay sự hối hận. Nếu ông không học được những phẩm chất này qua những kiếp sống sau đó để thay đổi, ông chắc chắn sẽ không thể trở thành người như ngày hôm nay.
Tuy nhiên, mặc dù đã trải qua nhiều kiếp sống, có rất nhiều người vẫn chưa tìm được bài học để cải thiện cuộc sống của mình. Do đó, họ vẫn tiếp tục chịu đựng nỗi đau và khổ đau hàng ngày. Những người này cần phải học thêm, bởi vì chỉ trong nỗi đau khổ, họ mới có thể tỉnh thức và học hỏi.
Tương tự như thế, có những người tưởng mình đã học được điều gì đó, nhưng khi gặp đúng hoàn cảnh thích hợp thì thói quen, tính xấu khi trước lại nổi lên và hành động của họ không khác gì người xấu. Điều này có nghĩa là họ chưa nắm vững bài học trước đây và sẽ phải học lại, tư tưởng, lời nói và hành động của họ là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ để buộc họ phải học. Người có lương tâm, trách nhiệm, biết lắng nghe và cảm thông với người khác thường là những thực thể đã học được bài học mà họ cần học. Họ đã trải qua nhiều kiếp, có kinh nghiệm học hỏi, nhờ vậy tính tình, tư tưởng và hành động của họ mới tốt đẹp Như vậy .
Một thực thể phải trải qua nhiều kiếp sống khác nhau, đôi khi làm người, đôi khi làm thú vật, đôi khi làm sinh vật ở một thế giới khác, để trải qua những tình huống khác nhau và học hỏi. Tùy thuộc vào tư tưởng và hành động của họ, họ sẽ được tái sinh vào các hình hài khác nhau, không phải lúc nào cũng làm người. Kẻ tàn ác thường tái sinh thành con vật bị đánh đập tàn nhẫn, để họ học bài học về sự đau khổ mà họ đã gây ra cho người khác. Tất nhiên, chỉ khi trải qua nhiều kiếp sống bị đày đọa và đánh đập tàn nhẫn, họ mới nhận ra hậu quả của hành động của mình và chịu học hỏi.
Khi bắt đầu học, mỗi khi người này có hành động độc ác, tự nhiên có một sức mạnh nào đó thúc giục họ dừng lại, được gọi là tiếng nói của lương tâm. Tiếng nói này xuất phát từ những trải nghiệm trong những kiếp sống trước. Nó tồn tại trong một “bộ óc” đặc biệt để nhắc nhở người đó về những bài học cần học. Ban đầu, tiếng nói này không có hiệu lực lắm vì họ không lắng nghe, nhưng sau nhiều kiếp sống, trải qua nhiều đau khổ, nó trở nên mạnh mẽ. Khi thực thể thay đổi và không còn hành động như vậy nữa, có thể coi như họ đã học được những điều cần thiết.
Tôi bỗng tự hỏi: – Nhưng… Nếu như vậy, thì tôi đã học được điều gì? Ông Kris nhìn tôi một cách đầy ý nghĩa: – Ông đã học được rất nhiều vì ông là một cá nhân thông minh.
Tuy nhiên, ông cần tự nhận ra những kiến thức mà ông đã học. Tôi chỉ có thể hỗ trợ ông một phần vì ông phải tự tìm hiểu những gì mình muốn biết. Nếu tôi nói ra, đó chỉ là ý kiến của tôi và ông có thể dễ dàng bỏ qua hoặc không tin vào những gì tôi nói. Nhưng khi ông trải nghiệm những điều này một cách tự nhiên và rõ ràng, ông sẽ hiểu một cách sâu sắc hơn.
Ông Kris nhìn tôi với nụ cười và nói: “Những điều này không có gì mới mẻ, vì đã được các tôn giáo đề cập từ lâu. Tuy nhiên, đa số mọi người thường lúc tin lúc ngờ, vì đó chỉ là những điều được dạy bảo chứ không phải là kinh nghiệm thực tế của riêng họ. Những người có đức tin thì dễ dàng tuân theo những bài học lý thuyết, nhưng đa số chỉ nghe rồi bỏ qua.”
Qua, do đó họ phải học đi học lại cho đến khi nào họ thật sự thẩm thấu bài học này .
Trước đây, hầu hết mọi người đều có lòng tin vào tôn giáo, giúp họ nhanh chóng tiếp thu kiến thức. Nhưng ngày nay, đa số mọi người có tính nghi ngờ, chỉ lắng nghe những điều mình muốn nghe và bỏ qua những điều không thích. Do đó, họ thường hành động theo ý muốn của mình, không quan tâm đến hậu quả, và kết quả là họ phải học thêm rất nhiều.
Tôi nhớ lại kỷ niệm đã xảy ra và đặt câu hỏi: – Dựa vào trải nghiệm vừa qua, tôi có thể kết luận rằng Atlantis thực sự tồn tại. Giống như triết gia Plato đã khẳng định, Atlantis từng có một nền văn minh phát triển vượt trội nhưng đã chìm xuống biển sau trận đại hồng thủy. Vậy những người sống ở đó hiện nay thì sao? Ông Kris nhìn tôi một cách tập trung: – Ông có thực sự muốn biết điều đó không? Mặc dù bất ngờ với câu hỏi, tôi cũng gật đầu.
Ông Kris nói thong thả: – Đa số mọi người không tin rằng từ ngàn xưa đã từng có những nền văn minh cao hơn ngày nay nhưng đã biến mất trên bề mặt địa cầu, không còn để lại dấu vết gì. Tuy nhiên, điều này cũng không lạ vì hai trăm năm trước nếu ai đó nói rằng con người có thể bay lên không gian hay tạo ra những thứ vũ khí có thể xóa sổ cả một lục địa thì chẳng ai tin. Nếu quan sát những biến cố xảy ra trong thời gian gần đây, chúng ta thấy rằng chỉ qua hai trận thế chiến mà nhiều quốc gia đã bị xóa sổ và nhiều quốc gia mới được hình thành. Nếu nhìn xa hơn nữa, chúng ta có thể thấy những đế quốc như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, hay Mông Cổ với các triều đại kéo dài hàng trăm năm, nhưng hiện nay cũng không còn tồn tại, thì việc một nền văn minh đã tồn tại hàng ngàn năm rồi biến mất qua trận đại hồng thủy cũng không phải là điều không thể xảy ra.
Có thể sau vài trăm năm nữa, con người sẽ không còn nhớ đến sự tiến bộ của nền văn minh công nghệ hiện đại với những phát minh khoa học kỹ thuật ngày nay. Chỉ có một số sự kiện đặc biệt như chiến tranh, đại dịch, thiên tai mới được ghi nhận.
Tất cả đều thay đổi và ai biết lịch sử có thể lặp lại vì không ai học được gì.
Ông Kris dừng lại, như để tôi có thời gian suy nghĩ, sau đó tiếp tục: – Nếu bạn biết cách quan sát, bạn sẽ nhận ra rằng hầu hết những người từng sống tại Atlantis trong quá khứ đang trở lại thời đại này để học những bài học mà họ cần. Mỗi cá nhân có những bài học riêng của mình, nhưng nói chung, tất cả đều phải học lại những bài học chưa hoàn thành và sau khi hoàn thành, họ lại tiếp tục học những bài học quan trọng hơn.
Ông Kris nhấn mạnh rằng chỉ trong một thời gian rất ngắn, chưa đầy một thế kỷ, đã có rất nhiều phát minh khoa học kỹ thuật ra đời. Trong năm mươi năm qua, số lượng phát minh khoa học kỹ thuật đã vượt trội hơn tất cả những phát minh trong mấy ngàn năm trước. Có bao giờ ông tự hỏi tại sao lại có nhiều phát minh như thế không? Các kiến thức khoa học này từ đâu đến? Phải chăng những người sống tại Atlantis khi xưa đã tái sinh trở lại và mang theo những kiến thức siêu phàm của họ vào thế kỷ này? Ông Kris ngừng lại một chút dò ý tôi, rồi nói rằng trong vòng hai mươi năm nữa, sẽ có những phát minh tối tân mà hiện nay mọi người nghĩ không thể xảy ra. Thế kỷ hai mươi mốt này sẽ là khoảng thời gian mà phát minh kỹ thuật tiến bộ vượt xa những thế kỷ trước, nhưng đồng thời những thói quen xấu mà người xưa đã có cũng sẽ cùng lúc trở lại. Tình trạng tham lam, ích kỷ, bóc lột, chiếm đoạt, áp bức sẽ xảy ra nhiều hơn trước. Xã hội sẽ phân chia ra nhiều đẳng cấp, và đẳng cấp trên sẽ đàn áp đẳng cấp dưới không thương tiếc. Tình trạng vô cảm, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác đã và sẽ xảy ra khắp nơi. Ngay ở nước Mỹ này, tình trạng bất bình đẳng giàu nghèo hay phân biệt chủng tộc đang và sẽ là vấn đề lớn trong tương lai. Ngay tại đây, nơi mà phần lớn người Atlantis đầu thai trở lại, ông có thể thấy khoa học kỹ thuật phát triển mạnh hơn những nơi khác. Câu hỏi là mặc dù đã trải qua bao kiếp sống, nhưng những người này đã học được gì? Mặc dù đây là câu hỏi mang tính cá nhân nhưng cũng là câu hỏi dành cho toàn thể nhân loại. Họ đã học được gì?
Ông Kris dừng lại một chút để tôi suy nghĩ, sau đó tiếp tục: – Nếu Atlantis, một lục địa, có thể biến mất khỏi bề mặt trái đất, thì các lục địa khác như châu Mỹ, châu Âu, châu Á và châu Úc cũng có thể bị phân tách thành nhiều mảnh hoặc chìm sâu xuống đáy đại dương. Nếu một nền khoa học có thể thay đổi nguyên tử trong cơ thể để chữa bệnh, thì nó cũng có thể biến con người trở thành một sinh vật “nửa người, nửa thú”. Tôi tin rằng điều này có thể xảy ra vì có một số người vẫn chưa học được những bài học cần học, dù đã trải qua nhiều kiếp sống. Nếu những người tham lam và ích kỷ không học được bài học về hậu quả của hành động của mình đối với người khác, thì họ sẽ phải học lại bài học này qua những biến cố khắc nghiệt hơn, mà họ không thể tưởng tượng được. Như tôi đã nói, phần lớn con người chỉ học được qua đau khổ, và bài học này sẽ diễn ra một cách khốc liệt, vượt ra ngoài khả năng tưởng tượng của con người.
Tôi bị kinh ngạc: – Ông nghĩ điều này sẽ xảy ra à? Ông Kris gật đầu đồng ý: – Nếu bạn chú ý, bạn sẽ nhận thấy rằng hiện nay đã có những biến động trong tự nhiên, như một cảnh báo về sự thiếu ý thức của con người. Bạn có thể thấy rằng các tảng băng khổng lồ đã tồn tại hàng triệu năm ở hai cực trái đất đang tan chảy do hành tinh đang nóng lên, và sắp tới, mực nước biển sẽ tăng lên gây ngập lụt khắp nơi.
Các quốc gia ven biển sẽ bị chìm dưới đại dương trong tương lai gần. Trong thời gian ngắn tới, sẽ xảy ra những trận hạn hán khủng khiếp và cháy rừng tàn phá trái đất, gây ra sự biến đổi khí hậu không thể khắc phục.
Sau đó, đói kém, thiên tai và dịch bệnh sẽ lan rộng khắp nơi. Số người chết có thể lên đến hàng triệu hoặc thậm chí còn nhiều hơn.
Tuy nhiên, ít ai đã nhận ra điều này trước đây. Hiện nay, đa số vẫn sống một cách lãnh đạm, không ý thức, chỉ vì chưa gặp phải tai họa ảnh hưởng đến bản thân, gia đình hay quốc gia mà họ đang sinh sống. Nếu sự việc xảy ra ở một nơi khác, họ thường không quan tâm. Ngày càng nhiều người sống ích kỷ, tham lam, lãng phí và vô tình. Họ không biết khi nào đủ, luôn khao khát thêm nhiều thứ. Họ tiếp tục phá hủy môi trường mà không hề thương tiếc, chỉ để thỏa mãn lòng tham chiếm đoạt mọi thứ.
Họ không bao giờ biết đủ và tiếp tục khai thác những gì họ có thể chiếm đoạt. Họ sẽ phải học bài học này trong những tình huống mà họ không bao giờ nghĩ rằng có thể xảy ra với mình.
Đột nhiên, ông Kris dừng lại và suy nghĩ: – Có lẽ lúc này Angie đang lo lắng vì bữa tối. Có vẻ như ông bà muốn mời tôi ăn cơm tối hôm nay. Buổi gặp gỡ ngày hôm nay đã đủ, chúng ta sẽ còn gặp nhau nhiều lần sau và tôi sẽ sẵn lòng giúp ông tìm hiểu những gì ông muốn biết.
Trong khi chúng tôi đang thảo luận về châu Atlantis, ông Thomas đã tiết lộ rằng trong quá khứ, lịch sử của Atlantis ghi nhận nhiều trận động đất, bão tố và sóng thần gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, người dân ở đó chỉ coi những sự kiện này là những biến cố tự nhiên và không chú ý đến hậu quả ngày càng nghiêm trọng và khủng khiếp hơn trước khi xảy ra trận đại hồng thủy kinh hoàng. Ông đã nhớ lại cuộc sống khi Atlantis bị chìm xuống đáy biển bởi trận đại hồng thủy và cả nền văn minh này đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tôi đã hỏi ông liệu ông có thể nhớ lại kiếp sống trước đó không? Ông cho biết rằng ông chắc chắn đã có những kiếp sống trước đó, nhưng khả năng hồi tưởng của ông còn rất hạn chế.
Tôi muốn biết thêm về cuộc sống ở châu Atlantis. Ông nói rằng rất khó để diễn tả cuộc sống vào thời điểm đó cho người hiện tại có thể hiểu được.
Người dân xứ này sống theo bản năng, nên họ có tính ích kỷ và vô cảm tương tự như loài vật. Kiến thức khoa học của họ cũng phát triển từ bản năng và trực giác, trong khi chúng ta phát triển kiến thức từ bộ óc và suy luận. Nhờ bản năng, người Atlantis có thể hiểu và sử dụng những năng lực tiềm ẩn trong thiên nhiên.
Ông tiết lộ rằng tại ngoài khơi Đại Tây Dương, người ta có thể khám phá di tích của những cây cầu xây bằng đá nối liền các hòn đảo của xứ Og. Những cây cầu này được chống bằng các cột đá hình tròn được gọi là “scott stone”. Ông cũng cho biết rằng tại vùng ngoài khơi Florida, nơi xứ Og được cho là nằm trước đây, người ta có thể tìm thấy di tích các đền thờ sinh vật của một thế giới khác dưới đáy biển. Ông cho biết rằng ảnh hưởng của luồng từ lực tại đây vẫn còn tồn tại và là nguyên nhân của hiện tượng này.
Gây ra hiện tượng “Tam giác quỷ Bermuda”, nơi tàu thuyền đi qua thường bị mất tích một cách bí ẩn. Ông cho biết rằng khi tinh tú di chuyển vào một vị trí nào đó, sẽ kích động và đánh thức luồng từ lực cực mạnh lạ lùng này, tạo ra những trận cuồng phong bất ngờ, làm chìm tất cả mọi vật xung quanh.
Chúng tôi ngồi ở bàn ăn trong căn nhà nghỉ dưỡng mới mua, Angie đã chuẩn bị một bữa ăn tươi ngon với những đĩa trái cây được bày trí tinh tế.
Ông Kris hân hoan chia sẻ: – Lâu rồi tôi mới có dịp thưởng thức một bữa ăn ngon như hôm nay. Những đĩa trái cây thông thường này, nhờ sự sắp xếp tinh tế của bà, đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.
Angie hân hoan bày tỏ: – Xin cảm ơn ông, tôi rất hài lòng với cách trang trí này. Đối với tôi, nấu nướng là một niềm vui và mỗi khi có khách đến thăm nhà, tôi luôn tự tay chuẩn bị bữa ăn.
Tôi gián đoạn: – Tuy nhiên, tôi không muốn Angie phải lo lắng như vậy, vì đã có người giúp việc trong nhà rồi.
Ông Kris nở nụ cười và hỏi Angie: “Bà nghĩ sao?” Angie lắc đầu và trả lời: “Họ làm việc vì bắt buộc, không phải vì thích. Còn riêng tôi, tôi làm việc vì niềm vui mà công việc mang lại. Nhiều người nội trợ làm việc và cảm thấy mệt mỏi, khó khăn như là nạn nhân, không phải vì niềm vui. Nhưng tôi làm vì tôi muốn làm, không phải vì bắt buộc.”
phải bị ai bắt buộc, do đó nấu ăn hay công việc nội trợ đối với tôi là nguồn vui thực sự. Tôi làm vì tôi yêu nhà tôi nhưng ông ấy không muốn tôi phải mệt nhọc Như vậy .
Ông Kris đã phát biểu: – Bà nói đúng, khi quan sát cách mọi người làm việc hiện nay, hầu hết họ chỉ làm vì bắt buộc mà không thực sự thích. Họ không tìm thấy niềm vui trong công việc và kết quả là họ cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Nếu biết cách tìm niềm vui trong mọi hành động, cuộc sống sẽ trở thành một phúc lợi thay vì một sự áp đặt.
Angie quay đầu về phía tôi và nói: – Anh đã thấy chưa, em làm việc này vì đam mê chứ không ai ép buộc. Khi làm việc, em cảm thấy hứng thú và thường hát hay huýt sáo để tâm hồn vui vẻ và thoải mái.
Ông Kris hỏi bà: – Bà thích làm đến thế sao? Thật tuyệt vời, đã lâu rồi tôi không nghe tiếng huýt sáo. Có vẻ như ngày xưa mọi người sống vui vẻ và hồn nhiên hơn ngày nay.
Nghe ông Kris chia sẻ như vậy, tôi cũng muốn thêm vài lời: – Ông nói đúng, hiện nay hầu hết mọi người đều bận rộn và bị ảnh hưởng bởi các dịch vụ và sản phẩm công nghệ. Nếu không gửi tin nhắn trên điện thoại, xem phim trên tivi thì cũng phải lướt Facebook, Messenger hoặc xem YouTube trong nhiều giờ liền trong ngày.
Ông Kris nở nụ cười: – Vì vậy, họ không còn tìm thấy sự yên bình trong tâm hồn nữa. Luôn luôn trong trạng thái căng thẳng, lo lắng và mất đi sự trong sáng bên trong. Ông sẽ nhận thấy rằng số lượng người mắc bệnh thần kinh đang tăng lên do hầu hết các bạn trẻ hiện nay đều bị suy nhược tinh thần.
Angie đặt câu hỏi: – Nhưng làm sao chúng ta có thể tìm lại niềm vui đã mất? Ông Kris trả lời một cách thong thả: – Để sống thoải mái, trước hết chúng ta cần có sức khỏe tốt thông qua việc vận động và nghỉ ngơi đầy đủ. Nhiều người trẻ lãng phí sức khỏe của mình trong những cuộc vui trác táng mà không.
Biết được hậu quả tai hại của nó là gì, chỉ khi khỏe mạnh thật sự về tinh thần và thể xác, ta mới có thể nhìn mọi sự với những khía cạnh đẹp nhất, phù hợp với bản chất vốn có của chúng. Tuy nhiên, khi mệt mỏi, lo toan, căng thẳng và đau ốm bệnh tật, ta không thể cảm nhận được những điều như luồng gió mát, tiếng chim hót, cánh hoa tươi, sự rung động của chiếc lá trong làn gió nhẹ hay âm thanh của một giai điệu bản nhạc hay. Những người trẻ hiện nay thường làm việc, ăn và ngủ ngay trên bàn làm việc, không biết tìm kiếm sự thoải mái khi nghe nhạc yêu thích, đi dạo trong công viên để đầu óc được thư giãn. Họ thường nói rằng cần tập trung vào việc tìm sự sáng tạo trong công việc, nhưng họ không nhận thức được rằng chính sự thoải mái tinh thần mới làm cho bộ óc của họ trở nên lạc quan và sáng tạo hơn.
Angie vẫn đặt câu hỏi: – Ông nói như vậy, nhưng tôi thấy nhiều người trẻ hiện nay vẫn thường tham gia các hoạt động thể thao như chạy bộ, tập gym chẳng hạn.
Ông Kris vui mừng đáp: – Dù họ chạy hoặc tập gym, tâm trí vẫn bận rộn với nhiều công việc khác.
Có khi họ vừa chạy, vừa tập, vừa nghe nhạc hoặc theo dõi tin tức qua chiếc tivi hoặc iPhone. Đó chỉ là việc vận động thể xác, không phải là nghỉ ngơi hay thư giãn. Để chăm sóc sức khỏe thể chất tốt hơn, cần phải nâng cao sức khỏe nội tâm và tránh nuôi dưỡng các cảm xúc tiêu cực. Khi họ chú ý đến từng hành động và từng hơi thở của mình, họ sẽ trở nên vui vẻ và lạc quan hơn.
Nếu họ tự đề ra một quy tắc là hàng ngày mong chờ một điều bất ngờ vui vẻ, họ sẽ trải nghiệm được niềm vui đó.
Nếu họ nhận ra rằng thật may mắn khi thở vào không khí trong lành vào buổi sáng sớm, hay thật sung sướng khi chạm vào những chiếc lá khô vàng hoặc mặt cỏ đầy sương mai, thì họ sẽ tìm thấy những niềm vui bất ngờ. Nhờ có cảm nhận tích cực về cuộc sống, họ có đủ sức đối mặt với khó khăn và vượt qua trở ngại.
Angie tiếp tục hỏi: – Nếu vậy, tập Yoga có lợi ích gì? Hôm qua chúng ta đã thảo luận về Yoga và có vẻ như ông cũng hiểu về nó phải không?
Ông Kris gật đầu và nói rằng ông cũng có kiến thức nhất định về Yoga. Thực tế, Yoga là một môn khoa học đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước, giúp con người kết nối với Thượng Đế. Tuy nhiên, ngày nay, tinh hoa và triết lý của Yoga cổ điển đã dần mất đi, chỉ còn lại một số phương pháp tập luyện. Hiện nay, Yoga được biết đến như một môn thể thao để thư giãn cơ thể. Một ví dụ phổ biến nhất là Hatha Yoga, tập trung vào các tư thế (asana) để phục hồi các cơ bắp không hoạt động đúng cách. Nếu người ta biết cách hít thở đều trong quá trình tập Yoga, họ có thể phục hồi sức khỏe và thư giãn cả thân tâm.
Angie hỏi thêm: – Nếu vậy, Yoga cổ xưa dạy như thế nào? Ông Kris trả lời: – Theo truyền thống ghi trong kinh Veda, Yoga có ba môn phái hoặc ba con đường, gồm Karma Yoga (con đường hành động), Jhana Yoga (con đường triết học) và Bhakti Yoga (con đường sùng kính). Ban đầu, chúng khác nhau nhưng cuối cùng lại hợp nhất thành một, vì tất cả chỉ là những phương tiện. Dù phương tiện có thể khác nhau, mục đích vẫn là duy nhất, là trở về hòa hợp với Thượng Đế.
Theo quan điểm của Ấn giáo, mọi thứ đều trở về với nguồn gốc.
Từ xa xưa, trong mọi tình huống, dù dưới cái tên này hay cái tên khác, dưới hình dạng này hay hình dạng khác, dù tình cờ hay cố ý, mọi vật đều tìm về nguồn sống thiêng liêng mà chúng bắt nguồn từ đó. Biển cả tìm về nguồn qua những con sóng trùng phùng. Gió tìm về nguồn khi thổi qua mặt đất. Cây cối trong rừng nảy mầm và trổ hoa, còn các sinh vật đi tìm từng bước một. Con người cũng vậy, họ trở về nguồn gốc qua nhiều hình thức, có khi cao quý và tuyệt đẹp, nhưng cũng có khi điên cuồng và lạc lối.
Khoa học hiện nay đặt tên cho quá trình này là tiến hóa, hoặc là sự biến đổi để trở nên tốt hơn và đạt đến sự hoàn thiện. Vì sao lại như vậy? Bởi vì tất cả các vật đều bắt nguồn từ một nguồn gốc thiêng liêng và phải trở về với nguồn gốc đó – “vạn vật đồng nhất thể”. Các tín đồ Ấn giáo và một số tôn giáo khác gọi nguồn gốc này bằng một danh từ.
“Thượng Đế”. Phật giáo được gọi là “Phật tánh”, và khoa học được gọi là “năng lượng uyên nguyên” (primal energy).
Theo quan điểm khoa học, năng lượng này tồn tại trong mọi vật chất. Từ những giọt nước trong đại dương cho đến các loại đá quý, từ thảo dược đến các loài động vật hoặc con người. Nó ẩn chứa bên trong, che giấu dưới một lớp vỏ hư ảo, hình thức của yếu tố vô hình bên ngoài nên sự tìm kiếm đúng đắn là “hướng vào bên trong chứ không phải hướng ra bên ngoài”. Sự sai lầm của con người là họ thường tìm kiếm ở bên ngoài, do đó, “sẽ đến lúc họ cảm thấy đau khổ, lạc lõng và mất phương hướng”. Ban đầu, con người tìm kiếm một cách vô thức, hướng đến sự hưởng thụ, thỏa mãn tham vọng cá nhân, và sau đó họ sẽ phải học bài học về sự đau khổ. Sau khi học được bài học đắt giá này, họ bắt đầu hiểu và nhận thức sâu hơn – tùy thuộc vào từng người – cuộc tìm kiếm sẽ trở nên có ý thức hơn, họ biết rõ mục tiêu của mình và sử dụng những kinh nghiệm đã trải qua, đã học hỏi để tiến gần hơn đến mục tiêu.
Có nhiều lý giải về con đường này tuỳ thuộc vào phong tục, tập quán và điều kiện địa dư, từ đó tạo ra nhiều tôn giáo khác nhau. Nếu ta có thể loại bỏ các định kiến và hạn chế của tôn giáo, ta sẽ thấy rằng tất cả mọi vật đều hướng về nguồn sống thiêng liêng này.
Angie phát biểu: – Tôi vẫn chưa có sự hiểu biết đầy đủ, xin ông vui lòng giải thích thêm về truyền thống Yoga theo quan niệm của Ấn giáo.
Ông Kris trả lời: – Nếu bạn quan sát kỹ, bạn sẽ nhận ra rằng con người, dù sống ở đâu, đều đang trên con đường trở về nguồn gốc thiêng liêng. Con đường này kéo dài qua nhiều kiếp sống, được gọi là luân hồi. Mỗi khi chết đi, con người sẽ đầu thai vào kiếp sống mới. Trong mỗi kiếp, họ phải học những bài học để trở nên tốt đẹp hơn. Có người học nhanh, nhưng cũng có người không chịu học hoặc không thể học được, vì vậy họ phải học đi học lại nhiều lần. Đây là một hành trình khó khăn kéo dài qua nhiều kiếp sống, do ảo tưởng gây ra bởi khí lực vô minh gọi là guna.
Khí lực đầu tiên là sự bất động (tamas), khiến con người không có hứng thú hoặc động lực để làm gì. Có nhiều người lười biếng, thẫn thờ và không muốn làm gì cả. Họ luôn ở trong trạng thái bất động, u mê. Cuộc sống của họ là một sự thụ động, không có mục tiêu hoặc ý thức, chỉ biết ăn và ngủ và chỉ muốn yên thân trong tình huống đó. Đây là những người có sự tiến hóa thấp hoặc tiến bộ chậm, nên họ mất rất nhiều thời gian để học hỏi. Cũng có những người đã đi xa nhưng lại quay trở lại điểm xuất phát chỉ vì họ bị ảnh hưởng bởi các chất gây nghiện như bia, rượu hoặc ma túy, tức là họ thích sự bất động.
Họ chưa biết thưởng thức niềm vui từ việc khám phá hay đạt được những ước mơ tâm linh, vì vậy họ sẽ phải trải qua một khoảng thời gian dài trong nhiều kiếp để học hỏi.
Karma Yoga cổ xưa khuyến khích con người hành động thay vì im lặng. Trên con đường này, con người sẽ đối mặt với nhiều ham muốn và dục vọng để thúc đẩy họ hành động bằng một sức mạnh khác, trái ngược với sự im lặng.
Khí lực này là sự hoạt động (rajas), tạo ra ham muốn và dục vọng để thúc đẩy con người hành động. Với lòng ham muốn, con người lại hoạt động quá mức. Lòng tham tạo ra khí lực dồi dào, hung hăng khiến họ lao vào nhiều hoạt động để thỏa mãn sự đòi hỏi. Những người này tìm kiếm những thứ bên ngoài, thu thập, vơ vét, gom góp tích trữ vì nghĩ rằng sẽ sung sướng với những thứ vật chất đó. Thực tế, đó chỉ là lòng ham muốn, sự ích kỷ, chịu ảnh hưởng bởi khí lực rajas vô minh.
Trong giai đoạn này, việc quan trọng nhất mà họ cần học là khám phá sự đau khổ. Tất cả những kẻ tham lam và ích kỷ đều phải trải qua bài học về đau khổ. Đó là lý do tại sao có một quy luật được gọi là luật Nhân quả. Mọi hành động gây ra đều có hậu quả trở lại, gieo nhân nào gặt quả đó. Hiện nay, hầu hết con người đang đi trên con đường này. Bởi vì họ chưa tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự bên trong, họ phải tìm niềm vui qua sự sở hữu và chiếm đoạt tài sản vật chất bên ngoài, và đó là lý do tại sao có sự bóc lột và chiến tranh.
Qua những sự kiện này, con người mới hiểu được nỗi đau là gì.
Đầu tiên, để học được bài học này, họ sẽ phải trải qua nhiều kiếp nữa vì đây là một bài học khó tiếp thu hoàn toàn.
Angie tiếp tục nhờ ông Kris giải thích thêm: – Nhưng ai đã tạo ra quy luật này chứ? Và những yếu tố này bắt nguồn từ đâu? Ông Kris vẫn vui vẻ trả lời: – Không ai tạo ra quy luật này vì đó là những quy luật tồn tại trong vũ trụ.
Vạn vật trong vũ trụ tồn tại và bị chi phối. Không ai có thể trả lời ai đã làm cho trái đất quay quanh một quỹ đạo hay ai đã làm cho mặt trời chiếu sáng, vì đó là quy luật vũ trụ. Vì không thể giải thích, một số người đã sử dụng thuật ngữ “Thượng Đế” để ám chỉ một cá nhân nào đó ngồi trên cao tạo ra các quy luật. Thực tế, “Thượng Đế” chỉ là một danh từ để nói về các quy luật của vũ trụ.
Ngày nay, trên toàn cầu, mọi người đang nỗ lực không ngừng để thu thập tài sản và sở hữu. Họ làm việc không ngừng để tích lũy càng nhiều càng tốt, bất kể phương pháp. Tuy nhiên, hành động này đã tạo ra nhiều vấn đề xấu như bóc lột, đàn áp, đè nén và áp bức, dẫn đến sự chênh lệch quá lớn giữa người giàu và người nghèo.
Nếu ta quan sát kỹ, ta sẽ thấy rõ rằng dù thành công hay thất bại, giàu hay nghèo, xã hội hiện nay đều có rất nhiều người mắc bệnh tâm thần như lo lắng, sợ hãi, buồn rầu, chán nản và nhiều hơn nữa. Nếu ta để ý kỹ, ta sẽ nhận thấy số người mắc bệnh tâm thần ngày càng tăng.
Số người tử vong do bệnh tim và đột quỵ đang tăng lên không ngừng. Đồng thời, số người mắc các loại ung thư cũng đang gia tăng so với những năm trước. Trước cái chết, họ trở nên hoang mang và đau khổ, và lúc này mới nhận ra rằng tiền bạc, tài sản và danh vọng không thể giúp họ sống mãi và khi qua đời, họ không thể mang theo bất cứ thứ gì. Đây là bài học mà họ phải học trong cuộc sống này. Thực tế là việc theo đuổi sự giàu có vật chất không bao giờ có điểm dừng và không bao giờ đem lại sự thỏa mãn. Con người có thể dành cả đời để tìm kiếm sự giàu có, nhưng họ vẫn không cảm thấy hài lòng.
Sự tham lam của họ không có giới hạn khi họ càng kiếm được càng muốn có nhiều hơn. Kinh Veda đã nhấn mạnh rằng đó chính là việc sử dụng dầu để dập tắt lửa.
Sau nhiều lần trải qua kiếp sống, trải qua nhiều nỗi đau khổ, con người mới nhận ra rằng họ luôn cảm thấy không hài lòng, buồn phiền và đau khổ. Khi có nhiều thứ, họ lại lo sợ mất đi, và khi không có, họ lại mong muốn có nhiều hơn.
Sự lo lắng và buồn phiền nảy sinh càng nhiều khi thu thập được nhiều càng nhiều. Đến một lúc nào đó, họ cảm thấy mệt mỏi, chán chường và cay đắng, và nhận ra rằng họ không thể bao giờ thỏa mãn với vật chất.
Nhận thức được điều đó, một số người quyết định từ bỏ tất cả để tìm đến cuộc sống “thoát tục” thông qua con đường tu tập, hy vọng có thể thoát khỏi nỗi đau khổ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng xa lánh mọi thứ, con người không thể loại bỏ lòng tham vì ham muốn sẽ luôn theo đuổi họ, ngay cả khi họ ở trong rừng sâu hay núi thẳm. Những ham muốn sẽ luôn ám ảnh họ, không ngừng, không ngừng.
Họ vẫn bị cuốn hút bởi những khát vọng, bởi ham muốn thể xác và tinh thần, bởi mong muốn mãnh liệt không thể dễ dàng xóa bỏ. Nó đã trở thành một phần không thể tách rời trong bản chất con người.
Bà có thể quan sát rằng những tu sĩ bên ngoài trông rất linh thiêng, nhưng bên trong họ lại là một trận chiến đầy khốc liệt. Bà có thể thấy rất nhiều tu sĩ Ấn Độ tu khổ hạnh, tự giam cơ thể để kiểm soát dục vọng và giải thoát khỏi áp lực, nhưng không thể đạt được sự thiêng liêng bằng cách ép buộc cơ thể như vậy.
Angie muốn ông Kris giải thích rõ hơn nữa thắc mắc của mình: – Vậy thì họ có thể thay đổi như thế nào? Tôi nghĩ chỉ khi người ta can đảm đến mức cao nhất, họ mới có thể từ bỏ vật chất và cuộc sống xã hội để rút vào rừng sâu núi thẳm, ẩn tu và tìm kiếm sự an lạc.
Ông Kris cười lớn: – Con đường Karma Yoga dạy con người phải hành động, không ngồi yên và tránh né. Không phải lúc nào cũng phải từ bỏ cuộc sống thành thị để sống trong rừng hoặc từ bỏ tài sản vật chất để đạt được sự an lạc tinh thần. Có nhiều tu sĩ không quan tâm đến tài sản vật chất nhưng lại khao khát được người khác ca ngợi và tôn trọng. Điều này chỉ chứng tỏ họ đổi một thứ để đạt được thứ khác, tức là vẫn còn ham muốn. Hiện nay, không thiếu gì cho chúng ta.
Các tu sĩ như vậy có thể thuyết giảng về mọi điều cao siêu chỉ để đạt được sự khen ngợi và tôn trọng từ người khác. Điều đó chỉ là một sự trao đổi vật chất để thu được tinh thần, vì họ chưa thể vượt qua được sự tham vọng của bản thân và tấm màn vô minh.
Angie không ngừng đặt câu hỏi: – Theo ông, họ cần làm gì? Ông Kris trả lời: – Họ cần tiếp tục hành động, bởi chỉ qua hành động mới họ có thể học hỏi, thay đổi và trở nên tốt hơn. Họ có thể sống trong thành phố như bao người khác, nhưng phải biết cách thoát khỏi màn sương mù của sự vô minh.
Họ vẫn làm việc như mọi người, hành động như mọi người nhưng trong tâm đã hiểu rõ, từ bỏ mọi ràng buộc. Họ không từ bỏ trách nhiệm của mình trong gia đình hay trong xã hội, nhưng họ hành động với một mục tiêu khác. Họ có thể giàu có, sở hữu tài sản phong phú nhưng họ không quá quan tâm đến nó. Họ xem mình như là người được giao phó quản lý tài sản đó chứ không phải là chủ sở hữu.
Những cá nhân này hành động vì lợi ích chung, không phải vì mục đích cá nhân. Nói cách khác, họ làm việc để hỗ trợ cộng đồng, không phải để tìm lợi ích riêng.
Bất ngờ, ông Kris thể hiện sự nghiêm túc: – Tuy nhiên, trong giai đoạn này, có một xu hướng tinh tế xảy ra vì việc làm tốt cũng có thể ẩn chứa mục đích cá nhân, bắt nguồn từ những động cơ tiềm ẩn sâu trong tâm hồn mà không nhiều người hiểu rõ. Có những người làm việc vì giúp đỡ xã hội nhưng lại muốn thành công và sợ thất bại. Họ lo lắng về kết quả, vì vậy động cơ của họ vẫn bắt nguồn từ sự khao khát. Họ sợ khi công việc không thành và hạnh phúc khi đạt được thành tựu. Từ đó, họ mong muốn được công nhận và đánh giá cao.
Kết quả của hành động đó, dù có tính chất tích cực, vẫn mang trong mình một khát vọng cá nhân riêng tư. Đó là một tham vọng sâu thẳm trong tâm hồn. Bất kỳ hành động nào có sự can thiệp cá nhân sẽ gắn kết người thực hiện bởi hành động và kết quả. Do đó, họ vẫn chưa thoát khỏi sự trói buộc của sự tham lam vô minh.
Chỉ khi người làm không nhìn thấy mình làm, không chú ý đến việc làm, không mong đợi kết quả của hành động, không cần biết ơn hay quý mến, thì mới thực sự là người tuân thủ đúng con đường Karma Yoga. Khi đã hoàn toàn từ bỏ, không hoạt động để đạt được bất cứ điều gì trên thế gian, cũng không hoạt động để đạt được bất cứ điều gì ở cõi trên, không hoạt động để đạt được bất cứ điều gì trong kiếp này, cũng không hoạt động để đạt được bất cứ điều gì trong kiếp sau, không hoạt động để được mọi người biết đến, không hoạt động để nhận phần thưởng tinh thần, mà chỉ hoạt động âm thầm mà không quan tâm đến kết quả, thành công hay thất bại đều không quan trọng, luôn luôn hoạt động nhưng tâm hồn vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra, đó mới là sự bình tĩnh cần thiết để hoàn thành bài học Karma Yoga, hay con đường hành động.
Khi biết thản nhiên với thành công và thất bại, trong lúc vui và buồn, trong khi vinh và nhục, trong tình thương và oán hận, họ đạt đến trạng thái quân bình, không bất động và không náo động. Hành động “vô sở cầu” là bài học quan trọng của con người trên con đường Karma Yoga. Những người này thản nhiên và bình tĩnh trước mọi sự trong đời vì hành động chính là bổn phận. Họ không tìm kiếm hành động khi nó không đến, không từ chối hành động khi nó xảy ra, mà vui vẻ hành động khi bổn phận bắt buộc và bình thản trước mọi kết quả.
Những người này dù ở trong cung vàng điện ngọc, thưởng thức những món ăn ngon và sống trong những nơi tráng lệ, nhưng họ vẫn yên tâm và tự do. Dù sống trong lều tranh rách, không biết bữa nào có bữa nào không, và trải qua cuộc sống của người nghèo khó, tâm hồn của họ vẫn bình thản trước mọi biến cố. Khi có sự vật bên ngoài đến, họ không đuổi đi; khi chúng rời đi, họ không tiếc nuối vì họ có thể sống trong mọi hoàn cảnh. Không có gì khiến họ đam mê, không có gì khiến họ lo lắng, và họ luôn ung dung tự tại vì họ hiểu rằng tất cả chỉ là những ảo ảnh không thực sự.
Ai có thể sống như vậy đã hoàn thành con đường hành động Karma Yoga và đạt đến sự hòa hợp và thống nhất với nguồn sống thiêng liêng vô tận. Dù được gọi là gì đi nữa.
Dù được gọi là “Thượng Đế” hay bất kỳ danh xưng nào khác, điều này không quan trọng. Những người này đã vượt qua những giới hạn của bản thân, đã loại bỏ hoàn toàn dục vọng và nhìn thấy rõ ràng mối liên hệ giữa mọi sự tồn tại trên thế giới. Họ nhận thức rằng vũ trụ này là một điều tuyệt vời, không thể diễn tả bằng bất kỳ từ ngữ nào. Khi đó, họ sẽ trải nghiệm niềm hạnh phúc vô tận, niềm vui mãn nguyện mà Ấn giáo gọi là sự hòa hợp “tự thân hòa nhập với vũ trụ”.
Sau khi suy nghĩ một chút, Angie tiếp tục đặt câu hỏi: – Theo con đường này, con người sẽ phải trải qua nhiều kiếp sống và học từ những đau khổ để trở nên tốt đẹp.
Tuy nhiên, không nhiều người tin rằng có sự tái sinh và nhiều kiếp sống. Ông Kris đáp: “Tin hay không là quyền của mọi người, nhưng quan niệm về sự tồn tại của nhiều kiếp sống và luân hồi đã tồn tại từ xa xưa. Cả Ấn giáo và Phật giáo đều giảng dạy về điều này. Nếu bà đọc các tác phẩm của Hy Lạp, bà cũng sẽ thấy các triết gia như Pythagoras, Plato và Aristoteles đều tin rằng sau khi chết, con người sẽ có một cuộc sống tiếp theo. Triết gia Plato đã viết rất chi tiết về việc con người trải qua nhiều kiếp sống trong cuốn Phaedo và Republic, và nếu bà xem xét kỹ, bà cũng sẽ thấy Chúa Jesus đã giảng về điều này trong Phúc Âm.”
Ông Kris nhìn tôi với ánh mắt sâu thẳm và nụ cười nhẹ, sau đó ông tiếp tục: – Nếu ta xét từ góc độ đạo đức và luân lý, câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và sự tồn tại của con người đã được giải đáp một cách sáng suốt. Con người sinh ra và chết đi, sau đó tái sinh trong nhiều kiếp sống, dựa trên những hành động và tác động mà họ đã tạo ra. Điều này làm cho các triết gia và nhà khoa học ngày nay bối rối và không thể tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi này. Tại sao con người sinh ra và chết đi? Cuộc sống có ý nghĩa gì nếu chỉ có một lần sống và sau đó là sự tàn phá? Tại sao một số người được sinh ra trong sự sung sướng trong khi người khác lại chịu đựng cuộc sống khó khăn? Tại sao một số người sinh ra ở những quốc gia giàu có, phát triển, được hưởng thụ những tiện nghi vật chất, trong khi người khác lại sinh ra ở những quốc gia nghèo đói, đang chịu đựng chiến tranh liên miên và khốn khó?
Có thể không ai có thể trả lời câu hỏi về thiên tai hay dịch bệnh nếu không tin vào luật Luân hồi và Nhân quả.
Hãy xem đây chỉ là một lý thuyết thôi, ông bà sẽ nhận thấy rằng đó là một lý thuyết hợp lý, công bằng và đáng tin hơn bất kỳ quan niệm nào khác. Nó khác với thuyết “tiền định” rằng mọi sự hay số mạng đều được định trước bởi một “đấng cao cả” nào đó. Điều này có nghĩa là con người không có quyền tự do quyết định số phận của mình và chỉ bị sai khiến mà thôi. Nó biến con người thành một dạng nô lệ và không thể làm gì để thay đổi. Điều này không hợp lý, không công bằng chút nào. Ai có quyền định đoạt số phận con người như vậy? Không thể có một người hay một thực thể nào có thể trừng phạt con người. Đời sống con người tốt hay xấu là do chính họ tạo nên qua nhiều kiếp sống. Những người được hưởng sung sướng và những người không may mắn cũng là do những yếu tố trong quá khứ mà không mấy ai nhớ được. Bất cứ chuyện gì xảy ra cũng là do chính cá nhân đó tạo ra cho chính mình, không phải ai trừng phạt hay ban thưởng gì cho họ.
Angie tiếp tục đặt câu hỏi: “Nếu con người phải trải qua nhiều kiếp sống để học hỏi, thì con người đến từ đâu?” Ông Kris vui vẻ trả lời: “Đây là một vấn đề đã gây tranh cãi từ lâu. Không ai có thể giải thích một cách thỏa đáng. Có nhiều lý thuyết về nguồn gốc và điểm đến của con người. Một số tôn giáo cho rằng có một quyền năng sáng tạo đứng sau mọi vật và được gọi là ‘Thượng Đế’. Tuy nhiên, liệu có ai đã chứng kiến điều này hay chỉ là niềm tin? Nhiều người tin rằng Thượng Đế là một ông già có râu bạc, sở hữu quyền năng vô biên và công minh vô cùng. Nghĩ như vậy cũng không sai.”
Quan điểm về “nhân cách hóa” này có thể làm hài lòng một số người, nhưng không phải ai cũng đồng ý với nó. Trong thời đại khoa học hiện nay, nhiều người không tin vào sự tồn tại của một “Thượng Đế” và cho rằng đó chỉ là những niềm tin tôn giáo. Nhưng khoa học giải thích như thế nào?
Theo quan niệm khoa học, khắp vũ trụ tồn tại một năng lượng uyên nguyên. Khi năng lượng này tiếp xúc với yếu tố bản địa trên các hành tinh khác nhau, nó biến đổi thành một loại năng lượng mới do yếu tố vật lý hoặc hóa học. Sự biến đổi này phù hợp với hoàn cảnh của từng hành tinh và trở thành một nguồn sinh lực đặc biệt phù hợp với điều kiện địa phương. Những nguồn sinh lực này tiếp tục biến đổi và trở thành các sinh vật sống.
Ông Kris quan sát chúng tôi và nhấn mạnh rằng đây chỉ là một lý thuyết khoa học vì chưa có ai có thể chứng minh về việc tạo ra vũ trụ hay sự sống. Tuy nhiên, các nhà khoa học như J. R. Oppenheimer, Niels Bohr, Erwin Schrodinger, Werner Heisenberg đều cho rằng đây là một lý thuyết có giá trị và hợp lý.
Theo lý thuyết này, con người và mọi vật đều bắt nguồn từ một năng lượng tinh thần ban đầu, nhưng đã bị biến đổi bởi các yếu tố địa phương của các hành tinh trong vũ trụ, trở thành những thực thể sống. Để trở về nguồn gốc ban đầu, những thực thể này cần được làm sạch, loại bỏ các yếu tố địa phương để chuyển hóa trở lại thành năng lượng tinh thần ban đầu. Hiện nay, trong vũ trụ có hàng triệu hành tinh khác nhau, trên đó tồn tại những thực thể không giống loài người do điều kiện địa phương khác nhau tạo ra. Tuy nhiên, tất cả đều đang tiến hóa để trở về nguồn sống thiêng liêng hoặc năng lượng tinh thần ban đầu.
Mặc dù chúng ta không thể hiểu rõ về nguồn gốc của sự sống, nhưng chúng ta có thể tiếp cận với nó. Không ai có thể sống mãi, và cái chết là một sự thật không thể tránh khỏi. Bạn có thể thấy một người đang sống vào lúc này, nhưng sau đó lại chứng kiến họ qua đời chỉ trong một phút. Điều gì đã xảy ra trong khoảnh khắc đó? Chắc chắn có một lực lượng nào đó đã rút đi từ cơ thể đang hoạt động, khiến nó trở nên tĩnh lặng, rồi sau đó tan biến, trở về thành tro bụi. Vì vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng sự sống là một sự kiện tự nhiên, nhưng thời điểm nó đến và đi phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Sau khi qua cõi chết, sự sống hay sinh lực, một dạng năng lượng, sẽ chuyển đổi sang một hình thức khác theo lý thuyết này.
Như mọi người cũng biết, theo vật lý thì năng lượng không thể tạo ra.
Sinh tồn hay mất đi (định luật Bảo toàn và Chuyển hóa năng lượng) do năng lượng là một yếu tố không thể thay đổi trong không gian và thời gian. Nó chỉ có thể chuyển đổi hoặc biến đổi từ một trạng thái này sang trạng thái khác. Chết thực chất là quá trình chuyển đổi năng lượng sống của con người sang một hình thái mới dựa trên luật Nhân quả.
Dưới hình thái mới, nhiệm vụ của nó là tiếp tục loại bỏ những yếu tố không tốt, nhưng điều này không dễ dàng hay đơn giản. Vì một số lý do, khi trải qua sự thay đổi về thể chất và hoàn cảnh, nó lại tiếp nhận thêm những yếu tố xấu khác, làm cho quá trình loại bỏ trở về nguồn gốc kéo dài suốt hàng trăm, hàng ngàn kiếp sống.
Khoa học đã chứng minh rằng sự sống tồn tại trong tự nhiên không chỉ giới hạn đến các loài động vật và con người, mà còn có thể có trong kim thạch và cây cỏ. Mặc dù việc tin rằng sự sống cũng tồn tại trong loại đá và thảo mộc có thể khó tin, nhưng nếu xem xét kỹ, cây cỏ khi bị nhổ ra khỏi đất cũng sẽ khô héo, tàn tạ và chết như các sinh vật khác. Tuy nhiên, nói rằng hòn đá cũng có sự sống thì ít người có thể chấp nhận. Mặc dù theo thời gian, hòn đá cũng sẽ phân rã thành bụi cát giống như xác con người hay cây cỏ, nhưng quá trình này sẽ mất rất nhiều thời gian, hàng ngàn hoặc hàng triệu năm.
Theo triết lý Yoga cổ xưa, mọi vật đều tiến hóa để trở về nguồn gốc. Ấn giáo gọi đó là sự hòa nhập với “Thượng Đế”. Vì vậy, sự tiến hóa không ngừng của các loài là để học hỏi, thu thập kinh nghiệm và thay đổi để trở nên tốt đẹp hơn. Quá trình học hỏi này bắt đầu từ những hình thể thấp nhất như đá, cây cỏ, đến động vật, con người, và tiếp tục lên những mức cao hơn mà ta có thể gọi là những người thánh thiện.
Khi sự sống xuất hiện trong các loài kim thạch, chúng có những đặc điểm khác biệt so với cây cỏ, động vật hoặc con người. Nếu nghiên cứu kỹ, ta có thể nhận thấy rằng các loại khoáng chất tiến hóa thấp thường có cấu trúc mật độ cao, trong khi các loại khoáng chất tiến hóa cao đã trải qua những biến đổi kỳ lạ bên trong, biến chúng thành các loại đá quý. Những viên đá quý này mang trong mình một sức mạnh đặc biệt và có màu sắc tươi sáng. Nếu ta biết.
Bằng cách sử dụng sức mạnh của những viên đá quý này, con người có thể thực hiện nhiều công việc khác nhau như chữa trị các loại bệnh tật.
Angie bất ngờ hét lên: – Tôi nhớ rồi, hôm qua ông đã cho tôi xem cây gậy ngọc đính những viên đá quý. Có phải nó là một loại vật dụng để chữa bệnh? Ông Kris nhìn tôi một cách lạ lùng, khiến tôi cảm thấy lúng túng trước sự ngây thơ và vô tư của Angie. Ký ức vừa qua đã cho tôi thấy tác dụng của cây gậy ngọc, nhưng hiện tại tôi không biết phải giải thích như thế nào.
May mắn thay, ông Kris phát biểu: – Người xưa tin rằng có bảy loại ngọc với tác dụng chữa bệnh.
Các vị vua và chúa thời xưa thường mang những viên ngọc quý này để chữa bệnh. Còn cây gậy ngọc ở nhà tôi chỉ là một món trang trí để làm cho nó trở nên đẹp mắt.
Angie tỏ ra tò mò: – Nếu tôi không nhầm thì nó có gắn bảy viên ngọc. Đó là những loại ngọc nào vậy? Ông Kris nhìn tôi với sự hứng thú, sau đó giải thích một cách tỉ mỉ: – Bảy loại ngọc đó là kim cương, lam ngọc (sapphire), ngọc lục bảo (emerald), vân ngọc (jasper), hoàng ngọc (topaz), hồng ngọc (ruby) và tía ngọc (amethyst). Nếu bạn có một chiếc vòng đeo tay gắn đủ bảy loại ngọc này, nó có thể giúp bạn khỏe mạnh vì sức mạnh từ bảy loại ngọc này có thể đẩy lùi ảnh hưởng của một số bệnh.
Angie vẫn đặt câu hỏi: – Nhưng làm sao để chữa bệnh bằng ngọc? Một lần nữa, ông Kris nhìn tôi và mỉm cười: – Đó là một lĩnh vực khoa học cổ xưa đã bị lãng quên trong thời đại hiện đại.
Ngành khoa học này sở hữu một tri thức sâu rộng về các dòng điện trong vũ trụ và biết cách khai thác năng lượng điện từ kho báu vũ trụ để trị liệu bệnh tật. Dựa trên đặc tính riêng của từng viên ngọc, ta có thể hiểu nguyên nhân của các bệnh tật và sử dụng dòng điện tương ứng từ từng viên ngọc để chữa trị. Người sử dụng cần phải am hiểu rõ về năng lượng vũ trụ trong từng khoảnh khắc.
Những lúc thuận lợi nhất cho việc chữa trị, họ có thể sử dụng thuốc men từ cỏ cây, hoa lá hoặc xoa bóp để giúp phục hồi nhanh chóng. Đôi khi, họ cũng tổ chức các nghi thức đặc biệt để nhờ sự trợ giúp từ các động lực bên ngoài. Mỗi loại ngọc có công dụng riêng, nhưng nếu biết cách sử dụng sức mạnh của cả bảy loại ngọc này đồng thời, sẽ tạo ra một năng lượng mạnh mẽ có thể thay đổi nguyên tử hoặc tiêu hủy vật chất.
Angie phấn khích: – Nghe ông giải thích như vậy, tôi cho rằng ông có kiến thức sâu về cách áp dụng các loại ngọc này trong việc điều trị bệnh tật.
Ông Kris lắc đầu và nói rằng ông chỉ là người đọc sách và không biết gì về việc chữa bệnh. Các tài liệu khảo cổ cho biết rằng hầu hết các vua chúa xưa thường đeo vòng trang sức có gắn những viên ngọc này để tăng cường sức khỏe và tránh bệnh tật. Nếu bạn tham quan viện bảo tàng, đặc biệt là viện bảo tàng Ai Cập, bạn sẽ thấy các món đồ trang trí của vua chúa xưa thường có bảy loại ngọc này và cung điện Ai Cập thường được sơn phết màu sắc của các loại ngọc này.
Tôi lo lắng rằng câu chuyện có thể đi xa với những chi tiết có thể trở nên bất lợi, vì vậy tôi gián đoạn và nói: “Chúng ta đang nghe nói về sự tiến hóa của mọi vật. Em hãy để cho ông Kris tiếp tục câu chuyện dở dang nhé.”
Ông Kris quay đầu nhìn tôi với một nụ cười, sau đó tiếp tục nói: – Sự sống tiếp diễn qua các loại khoáng vật rồi chuyển sang loài thảo mộc, từ những loài nhỏ như rêu rong hay cây cỏ (thân thảo), sau đó tiến lên cây có thân cứng (thân mộc), và sau đó lên đến loài côn trùng, chim cá, các loài động vật thông minh và cuối cùng là con người. Đây là một quá trình kéo dài suốt hàng triệu năm hoặc hơn. Mỗi khi chuyển sang một giai đoạn, sự sống hoặc năng lượng đó thu thập thêm kinh nghiệm và từ từ phát triển sự hiểu biết và trí tuệ. Ở mức độ thấp (như đất đá, cây cỏ hoặc côn trùng), sự hiểu biết còn rất thô sơ nên chưa có tính cách cá nhân, nhưng khi tiến lên mức cao hơn (như động vật), nó dần dần hình thành.
Những cá thể độc lập, đến loài người thì ta gọi là “trí tuệ cá nhân”.
Angie đã nói: “Nếu như vậy, liệu có phải loài vật tiến hóa cao hơn cây cỏ và loài người tiến hóa cao hơn loài vật?” Ông Kris đã cười nhẹ và nói: “Đối với loài vật, con người là một sinh vật vượt trội. Nhưng điều đáng tiếc là chúng ta, dù được gọi là ‘vượt trội’, lại đối xử tàn nhẫn với loài vật thay vì yêu thương hay thông cảm với những sinh vật thấp kém hơn chúng ta. Nếu chúng ta để ý, chúng ta có thể thấy rằng con người là nguyên nhân gây ra đau khổ cho động vật. Chúng ta bắt chim bằng lưới hoặc bẫy, sử dụng lông thú vật để làm đẹp cho quần áo. Chúng ta coi việc săn bắn động vật như một trò giải trí, mặc kệ đau khổ mà chúng gây ra, dù chúng không thể so sánh với chúng ta về trí tuệ. Những hành động tàn nhẫn này gây ra nỗi sợ hãi cho động vật. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, làm trì trệ quá trình tiến hóa tự nhiên. Sự sợ hãi bắt đầu từ những loài thấp hơn và lan truyền khắp mọi loài.”
Angie tiếp tục đặt câu hỏi: – Nhưng không phải ai cũng giết động vật để làm giải trí như ông nói. Mọi người ăn thịt động vật để nuôi dưỡng cơ thể… Ông Kris lắc đầu và ngắt lời Angie: – Đó là một quan điểm sai lầm. Nếu bạn đồng ý rằng để trở nên tốt đẹp hơn trong quá trình tiến hóa, con người phải loại bỏ những thứ xấu xa. Loài thú có tiến hóa thấp hơn loài người, nếu chúng ta ăn thịt chúng, chúng ta sẽ hấp thụ những thứ xấu xa đó vào cơ thể. Vậy làm sao chúng ta có thể tiến xa trên con đường trở về nguồn sống thiêng liêng được.
Lời nói của ông Kris khiến chúng tôi đều bất ngờ. Angie phản đối: – Nhưng đó chỉ là lý thuyết, chưa có ai chứng minh rõ ràng cả.
Ông Kris tiếp tục nói với nụ cười.
Được rồi, chúng ta hãy làm sáng tỏ vấn đề dựa trên lý luận khoa học để dễ hiểu hơn. Khi súc vật bị giết, chúng sợ hãi và cơ thể chúng tiết ra những chất độc. Bà cũng biết rằng mỗi khi lo lắng, cơ thể con người cũng tiết ra những hóa chất độc hại – nhẹ thì làm chua bụng, nhức đầu, đau lưng, hồi hộp, mất ăn, mất ngủ… Nặng thì làm hại hệ thần kinh, gây ra các chứng bệnh như đau tim, sưng phổi, ung thư… Khoa học cũng đã chứng minh điều này. Vậy thì loài vật khi đối diện trước cái chết, điều gì diễn ra trong cơ thể chúng? Chắc chắn chúng sợ hãi vô cùng và cơ thể chúng tiết ra các hóa chất vô cùng độc hại. Khi chúng ta tiêu thụ những chất độc đó thì chuyện gì sẽ xảy ra cho cơ thể chúng ta? Ông Kris ngưng lại như để cho chúng tôi suy nghĩ, rồi tiếp tục: – Hiện nay, đa số mọi người đều thích ăn thịt loài vật, từ những con côn trùng bé nhỏ cho đến các loại tôm cá, rồi đến những sinh vật lớn hơn như heo, bò, trâu, dê… Nhu cầu ăn thịt đã tạo ra ngành chăn nuôi quy mô lớn trên khắp thế giới. Nhưng đã mấy ai nhìn thấy trong thời gian rất ngắn, số người mắc bệnh cũng gia tăng theo cấp số nhân. Đủ các thứ bệnh, từ nhức đầu, đau bụng đến đau tim, đột quỵ, ung thư… Một thời gian nữa sẽ có nhiều chứng bệnh quái lạ chưa từng có mà khoa học phải bó tay. Không mấy người biết đặt câu hỏi tại sao nền văn minh nhân loại tiến triển cao mà lại sản sinh ra nhiều bệnh khó trị như thế. Chữa trị bệnh cũng trở thành một ngành kinh doanh khổng lồ với những viện nghiên cứu và bệnh viện rất lớn. Khi có bệnh, ai cũng phải lo chữa trị. Bệnh càng nặng, chi phí cho việc chữa trị càng cao. Bà có thể thấy ngành công nghiệp thực phẩm và chữa trị bệnh có liên quan mật thiết với nhau và có khả năng sinh lời rất nhiều. Do đó, khắp nơi trên thế giới có rất nhiều ấn phẩm quảng cáo chiêu dụ con người ăn những thứ độc hại đó và uống những loại thuốc có thể chữa bệnh tật. Nhưng việc này không dừng ở đây mà còn tiếp diễn ở kiếp sau nữa. Ông bà có biết điều gì sẽ xảy ra không? Ông Kris nở một nụ cười lạ lùng: – Khi con người hấp thụ năng lượng của loài vật qua việc ăn thịt chúng thì sinh lực của họ chứa đầy những năng lượng của loài vật này có phải không? Và với những.
Loài vật sẽ chuyển hóa như thế nào nếu có năng lượng như vậy? Làm thế nào họ có thể đầu thai thành người trong kiếp sau? Một kho sinh lực chỉ chứa nguyên tử của loài thú có thể chuyển hóa thành loài thú, đúng không? Nói cách khác, họ đi ngược lại con đường tiến hóa mà đã mất bao nhiêu kiếp để trở thành người, rồi lại trở về trạng thái thú vật vì nguyên nhân ăn uống này. Khi trở thành loài vật, họ phải chịu số phận bị bắt, bị đánh đập, bị giết để học bài học về sự đau khổ mà họ đã gây ra cho sinh vật khác.
Angie có vẻ sợ hãi trước những chia sẻ gần đây của ông Kris. “Nghe ông nói mà tôi thấy rùng mình! Quan niệm này quá đáng sợ, nhưng nó chỉ là lý thuyết thôi, có lẽ không đúng với thực tế phải không ông?” Ông Kris trả lời một cách nghiêm túc: “Bạn có thể coi đó là một lý thuyết. Bạn cũng có thể coi việc ăn thịt cá là cần thiết để bổ sung dinh dưỡng cho cơ thể. Bạn cũng có thể bỏ qua những thông tin về bệnh tật do ăn uống và tiếp tục ăn uống như bình thường, nhưng khi bạn mắc bệnh, bạn sẽ suy nghĩ khác. Lúc đó, việc kiêng khem cũng đã quá muộn và thuốc men chỉ có thể kéo dài thêm thời gian. Mọi người có thể tin hoặc không tùy thuộc vào hiểu biết của họ, vì mọi người đều phải học những bài học quan trọng. Bạn có thể học ngay bây giờ hoặc chờ đến sau, tùy thuộc vào bạn. Chắc bạn cũng biết câu ngạn ngữ cổ “Ăn thứ gì thì trở thành thứ ấy”. Vì vậy, các nhà triết học xưa luôn khuyến khích ăn rau quả và không ăn thịt cá.”
Tôi không muốn Angie quá sợ hãi, vì vậy tôi cắt ngang và nói: “Xin ông tiếp tục giải thích về sự tiến hóa theo quan niệm của Karma Yoga cổ xưa để chúng tôi hiểu rõ hơn.”
Ông Kris gật đầu: – Tôi sẽ trình bày chi tiết về quá trình sinh lực trên trái đất này để ông bà hiểu. Hãy tưởng tượng rằng có một dòng sinh lực chảy xung quanh hành tinh chúng ta như một dòng nước. Khi dòng sinh lực này thấm vào các tảo biển và cây cỏ, nó tạo ra sự sống phong phú, nhưng không có gì đặc biệt xảy ra. Tuy nhiên, khi…
Luồng năng lượng này tràn đầy vào tồn tại của các loài vật, tạo ra nhiều yếu tố phát sinh. Thế giới động vật có cấu trúc phức tạp do sự tiến hóa ở nhiều cấp độ khác nhau, từ vi khuẩn nhỏ bé, côn trùng, giun dế cho đến các loài động vật hoang dã trong rừng, và sau đó là các loài động vật đã được thuần hóa trở thành gia súc.
Khi dòng năng lượng này tràn đầy vào các loài vật cấp thấp, khả năng học hỏi của chúng vẫn còn rất nguyên thủy và chưa đạt đến mức “cá nhân hóa”.
Ông bà có thể nhận thấy rằng các con côn trùng như kiến, ong, sâu bọ… Có những đặc điểm riêng biệt nhưng không có suy nghĩ riêng, chỉ có một sự hiểu biết chung. Ví dụ, trong một tổ ong, các con ong làm việc giống nhau. Một số con hút mật, một số con chăm sóc những con ong nhỏ trong tổ. Cuộc sống của các con ong này chỉ kéo dài vài ngày, vài tuần, nhiều nhất là một tháng. Tổ ong có một “nguồn kinh nghiệm” chung nên làm việc rất hiệu quả. Một số con hút mật từ hoa và nuôi những con ong khác. Chúng sinh ra, làm việc và chết mà không học được gì nhiều. Một số con bay đi hút mật nhưng bị con người đuổi bắt nên sợ hãi. Khi chết, chúng mang theo nỗi sợ này. Do đó, ong bắt đầu có cảm giác sợ người và cố gắng tránh xa khi gặp con người. Để tự bảo vệ, ong đốt con người. Theo thời gian, các con ong sau học được kinh nghiệm từ các con ong trước. Trong cuộc sống của ong, mỗi con ong mang theo “nguồn kinh nghiệm” khi chết và sau đó trở thành một tập tính chung của cả loài ong. Nếu quan sát, ông bà có thể thấy rằng hầu hết các côn trùng đều có những hoạt động tương tự, vì mỗi loài có một “nguồn kinh nghiệm” chung.
Ông Kris dừng lại để chúng tôi suy nghĩ, sau đó mỉm cười: – Có bao giờ ai tự hỏi tại sao côn trùng lại hoạt động như vậy không? Các nhà nghiên cứu côn trùng không thể giải thích điều này, chỉ có thể kết luận rằng chúng hành động theo bản năng riêng của mình. Từ lâu, các nhà triết học của phái Karma Yoga đã biết rằng loài vật cấp thấp chưa có kinh nghiệm riêng, chưa tiến bộ.
Do đạt được “trí tuệ cá nhân”, hóa đã hành động tương tự vì chúng có “kinh nghiệm chung”.
Sau một thời gian dài, sự sống sẽ tiến hóa và trở nên mạnh mẽ hơn thông qua việc tích lũy kinh nghiệm. Ví dụ, thay vì một tổ ong với hàng ngàn con ong, tổ chuột chỉ có vài chục con chuột. Chuột có sự sợ hãi đối với con người và các kẻ thù của chúng như mèo, chồn hay cáo, nhờ vào kinh nghiệm từ những kiếp trước. Ngay từ khi mới sinh ra, chuột con đã biết rằng nó phải tránh xa con người và mèo bằng mọi cách nhờ vào kinh nghiệm chung của loài chuột. Nó hiểu rằng nên hoạt động vào ban đêm khi con người đang ngủ, thay vì ban ngày. Tuy nhiên, mèo thông minh hơn và có thể bắt chuột bất cứ lúc nào. Một số con chuột sẽ bị mèo săn mồi, nhưng cũng có những con chuột thông minh thoát khỏi móng vuốt của mèo. Khi chúng chết, kinh nghiệm này trở thành một phần của “kho tàng kinh nghiệm” chung của loài chuột, làm cho những con chuột sinh sau thông minh hơn và biết nhiều mánh khóe hơn để tránh mèo.
Khi sự tiến hóa tiếp tục, loài thú trở nên thông minh hơn nhờ kinh nghiệm chung. Những con thú sống theo bầy chia sẻ kinh nghiệm của mình, trong khi những con sống độc lập bắt đầu phát triển trí tuệ riêng biệt dựa trên kinh nghiệm chung của loài. Thú rừng tuân theo quy luật “mạnh thì sống” và sự sinh tồn là đặc điểm quan trọng của chúng.
Sự yếu đuối của con sẽ trở thành nguồn thức ăn cho con mạnh, và nỗi sợ hãi về sự tồn tại được chia sẻ trong kinh nghiệm chung của loài đó. Hầu hết các loài động vật đều sợ chết, bất kể là do tự nhiên hay bị con khác săn đuổi. Trong tự nhiên, cá lớn ăn cá nhỏ, động vật mạnh ăn động vật yếu, vì đó là bản năng sinh tồn, ăn để sống. Vì vậy, việc tìm kiếm thức ăn là một chức năng không thể thiếu đối với mỗi con động vật.
Khi không có thức ăn tại nơi cư trú, chúng buộc phải tìm kiếm môi trường sống mới, học cách thích nghi với cuộc sống mới và đây là một bài học quan trọng mà chúng cần phải học.
Có một số loài động vật như lừa, ngựa, trâu bò, chó mèo đã được con người bắt và nuôi, từ đó họ đã học được những kinh nghiệm thích nghi mới.
Khi tuân theo mệnh lệnh của con người, chúng sẽ được ăn uống và chăm sóc. Sợ hãi đối với loài người giảm dần và khi chúng chết, những kinh nghiệm này trở thành kinh nghiệm chung, con cháu của chúng ngày càng được thuần hóa và sống chung với loài người một cách tự nhiên. Thời gian trôi qua, chúng bắt đầu học hỏi và có những kinh nghiệm riêng, tiến hóa thành những cá tính độc lập biết nghĩ và học nhiều hơn.
Đến giai đoạn này, sinh lực đã được “cá nhân hóa” để có thể thoát khỏi kiếp thú và trở thành người. Thời gian mà một con thú phải trải qua trước khi chuyển hóa thành người phụ thuộc vào mức độ gần gũi với những người xung quanh. Nếu chúng được đối xử tốt và yêu thương, chúng sẽ học được bài học về tình yêu và phát triển sự thông minh, nhanh chóng chuyển sang kiếp người. Tuy nhiên, nếu chúng bị đối xử tàn nhẫn và bị đánh đập, nỗi sợ hãi từ những kiếp trước sẽ trở lại và con vật phải trải qua nhiều kiếp nữa trước khi có thể thoát khỏi kiếp thú và trở thành người.
Trong các bài học, tình yêu thương là bài học quan trọng nhất để tiến hóa và làm sạch những yếu tố tiêu cực. Tình yêu không chỉ dành riêng cho con người mà còn lan tỏa đến tất cả các loài trên thế giới. Tình yêu xóa tan nỗi sợ hãi, vì nếu không có sự thông cảm và yêu thương, con vật không thể trở thành con người.
Ông Kris dừng lại và nhìn chúng tôi, sau đó nhấn mạnh: – Đây là chìa khóa then chốt của minh triết Karma Yoga. Tình yêu là bước đầu cho sự phát triển trí thông minh. Sự thông minh đúng cách là bước đầu cho sự phát triển trí tuệ, và trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất để loại bỏ những yếu tố tiêu cực và trở về với nguồn gốc thiêng liêng. Nếu quan sát, ta có thể thấy rằng những người thông minh thường có tình yêu bao la. Bây giờ, hãy xem xét đến loài động vật gần gũi nhất với con người. Chó và mèo là hai loài gần gũi nhất với con người.
Loài chó thường tỏ ra vô điều kiện yêu thương và sẵn lòng tuân theo mọi lệnh của chủ nhân. Điều này là nhờ vào khả năng hiểu và yêu thương của chúng.
Chó có khả năng học tập nhanh chóng, cho phép chúng ta kết luận rằng chúng là loài vật dễ dạy nhất do sự thông minh và khôn ngoan của chúng.
Trong tình huống nguy hiểm hoặc khẩn cấp, con vật quên bản năng sinh tồn và tự hy sinh để cứu chủ. Nếu con vật đã phát triển lòng hy sinh trong những tình huống nguy cấp, nó sẽ nhanh chóng học hỏi và trở thành người. Tuy nhiên, không nhất thiết con chó phải hy sinh để trở thành người. Khi con chó đã học hết những bài học cần thiết trong thế giới động vật và không còn sợ hãi đối với con người, nó sẽ được chuyển sang một kiếp sống mới để tiếp tục học hỏi.
Sự khác biệt chủ yếu giữa con người và động vật là khả năng lý luận và tự do ý chí. Nhờ khả năng lý luận, con người có thể phân biệt đúng sai, tốt xấu và có thể tự quyết định hành động của mình. Trong khi đó, động vật chỉ tuân theo bản năng sinh tồn và kinh nghiệm chung.
Angie đặt câu hỏi đầy tò mò: “Nếu vậy, liệu tất cả các loài động vật có thể trở thành chó mèo để có cơ hội trở thành con người không?” Ông Kris lắc đầu và trả lời: “Không hoàn toàn đúng, các loài động vật hoang dã cũng có thể trở thành con người, nhưng họ sẽ mang trong mình hình dạng của những người thấp kém, không phát triển. Hầu hết trong số họ sinh ra và sống trong các bộ tộc nguyên thủy. Nhiều người trong số họ vẫn giữ những tính cách hoang dã hoặc những thói quen lười biếng, ngu ngốc, không biết làm gì vì chưa phát triển được trí tuệ. Trong những kiếp đầu tiên ở dạng con người, những người này vẫn sống theo bản năng như động vật, họ tham lam, hung ác và chưa biết kiểm soát hành động vì chưa hiểu rõ về những quy luật tác động trong thế giới con người.”
Luật quan trọng đầu tiên áp dụng trong cuộc sống con người là luật Luân hồi. Theo luật này, khi sinh lực chuyển hóa thành cá nhân riêng biệt, nó sẽ phải trải qua nhiều kiếp sống khác nhau để học tất cả những bài học có thể học được.
Từ đó, nó sẽ hiểu cách lọc các yếu tố gây ô nhiễm thông qua kinh nghiệm của các kiếp sống trước đó.
Luật quan trọng thứ hai ảnh hưởng đến con người là luật Nhân quả.
Theo quy tắc này, mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của con người đều có hậu quả rõ rệt và phải được giải quyết trong thời gian ngắn hoặc qua nhiều kiếp sống để học hỏi và rút kinh nghiệm. Quy tắc này rất đơn giản vì “gìn giữ gìn nhân, gieo gìn quả”. Nếu hành động của chúng ta gây đau khổ cho người khác, chúng ta sẽ phải trả giá bằng sự đau khổ từ hành động tương tự của người khác gây ra cho chúng ta, trong cuộc sống này hoặc kiếp sau.
Khi mới trở thành con người, hành động, tư tưởng và lời nói của chúng ta thường bị ảnh hưởng bởi những tính cách thú vật trong kiếp trước, dẫn đến tính tham lam, ích kỷ và độc ác. Chính những tư tưởng, hành động và lời nói này sẽ gây ra nhiều đau khổ cho chúng ta. Trong những kiếp đầu tiên làm người, chúng ta tích lũy rất nhiều nhân xấu vì chưa học được những bài học cần thiết. Mặc dù chúng ta trải qua đau khổ, nhưng chúng ta chưa biết cách giải quyết. Phần lớn chúng ta chưa tiến bộ hoặc học hỏi gì, mà chỉ sống theo bản năng của loài vật, có xu hướng chiếm đoạt, tranh giành và cướp bóc những thứ của người khác. Bản năng thú vật này sẽ thúc đẩy chúng ta sử dụng sức mạnh để đạt được những gì chúng ta muốn.
Trong hàng trăm kiếp sống đầu tiên, những người này đã tạo ra nhiều hành động xấu hơn là tốt và liên tục tái sinh trong vòng luân hồi. Họ đã trải qua sự sống dưới hình thức con người và cả thú vật để học hỏi. Nhiều người đã hiểu sai rằng luân hồi hoặc tiến hóa có nghĩa là tiến lên cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng thực tế không phải như vậy. Luân hồi chỉ đơn giản là đi lên hoặc đi xuống trong một vòng xoáy không tận. Có khi làm người, có khi làm thú vật, và có khi thậm chí trở thành những linh hồn ma quỷ không có nơi để dựa dẫm, lang thang mất hướng, với tâm trí ngu ngốc và bị mắc kẹt trong một thời gian rất lâu.
Nhưng họ đã làm gì mà phải gặp tình huống đó? Ông Kris mỉm cười.
Mọi hành động đều tạo ra hậu quả và quả phải tương ứng với hành động. Đó là quy luật của vũ trụ. Mỗi hành động đều có phản ứng tương ứng. Ví dụ, nếu bạn ném một vật lên không trung, vật đó sẽ rơi xuống do sức hút của trái đất. Lực ném lên và lực rơi xuống là tương đương nhau. Nếu bạn ném một viên đá vào mặt hồ phẳng, nước sẽ bắn ra tung tóe. Nếu trong đời này con người gây ra những hành động xấu, và đời sau lại tiếp tục gây ra những hành động xấu khác, thì số lượng hành động xấu sẽ ngày càng tăng. Theo quy luật Nhân quả, khi quả chín thì hậu quả sẽ đến. Vì vậy, khi con người chết, họ trở thành ma quỷ vì đã gây ra nhiều hành động xấu. Những người tàn nhẫn, hiếu sát, thích đánh đập hoặc giết hại sinh vật thường phải chịu đựng bệnh tật và khó sống lâu. Nếu họ cướp đi sinh mạng của sinh vật khác, khiến chúng không thể sống lâu hơn, thì số mạng của họ cũng không thể kéo dài và thường chết sớm. Những người trộm cắp hoặc chiếm đoạt tài sản của người khác thường tái sinh vào những nơi nghèo khó. Điều này dễ hiểu vì khi họ chiếm đoạt tài sản của người khác, người ta sẽ trở nên túng thiếu và kẻ chiếm đoạt cũng sẽ gặp phải cảnh nghèo khó. Vì thiếu hiểu biết, con người dễ bị ảnh hưởng bởi những điều xấu, dần dần trở thành thói quen ác độc, và kết quả là họ phải chịu đựng nhiều hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật mà không thể nói hết được.
Sau hàng trăm kiếp sống, trải qua nhiều trạng thái khác nhau, từ sướng đến khổ, từ “lên voi” đến “xuống chó”, con người đã nhận ra rằng làm việc xấu sẽ gây khó khăn, còn làm việc tốt sẽ mang lại may mắn và thuận lợi. Khi họ đã học cách kiềm chế bản năng và thực hiện những việc tốt, thì thực thể của họ bắt đầu tiến hóa và loại bỏ những yếu tố tiêu cực. Theo thời gian, qua nhiều kiếp sống, họ tiến đến mức mà nhân tốt tạo ra nhiều hơn nhân xấu. Đây là giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của con người, vì từ đây họ trở nên hữu ích và có giá trị đối với gia đình, xã hội và quốc gia của mình.
Nếu quan sát, ta có thể thấy rõ những người này. Họ là những người đã hiểu và phát triển những phẩm chất tốt đẹp, nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã hội, quốc gia và nhân loại. Họ luôn luôn học hỏi, thay đổi và tự quản lý mọi hành động để loại bỏ những tập tính xấu và trở thành những nhà triết học, những người cao cả trên con đường trở về nguồn gốc thiêng liêng.
Đó chính là nguyên tắc của con đường hành động Karma Yoga mà ngày nay ít ai hiểu rõ.
Angie vẫn đặt câu hỏi: – Nhưng Karma Yoga khác với môn Yoga tôi thường tập luyện như thế nào? Thầy dạy Yoga của tôi còn yêu cầu chúng tôi phải tập thiền nữa. Vậy thiền có liên quan gì đến Karma Yoga không? Ông Kris gật đầu trả lời: – Môn Yoga bạn đang học chỉ là phương pháp tập luyện để giúp cơ thể khỏe mạnh và thư giãn. Như tôi đã giải thích, Yoga đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước, bao gồm việc điều trị thể xác, kiểm soát hơi thở và rèn luyện tinh thần. Yoga cổ xưa được chia thành ba con đường hoặc triết lý khác nhau. Mỗi con đường lại có nhiều phương pháp tập luyện khác nhau. Hatha Yoga tập trung vào rèn luyện thể chất, Raja Yoga tập trung vào rèn luyện tinh thần… Ông Kris nhấn mạnh: – Karma Yoga có nghĩa là con đường của hành động. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng karma không chỉ đơn thuần là hành động, mà còn ám chỉ ý chí và tâm trí trong mọi hành động. Không chỉ trong quá trình hành động mà còn trong suy nghĩ và lời nói. Ngày nay, nhiều người cho rằng karma chỉ đơn giản là hành động, nhưng điều này là thiếu sót vì karma bao gồm cả ý niệm, lời nói và hành động.
Nếu quý vị để ý, sẽ thấy có sự khác biệt đáng kể giữa hành động tự ý và hành động vô thức. Việc làm vô ý sẽ khác với việc làm có ý đồ, vì kết quả sẽ không giống nhau. Mọi việc chúng ta làm với ý chí đều mang lại hậu quả, vì đã có sự suy nghĩ trước khi hành động.
Mọi hành động của con người đều bắt nguồn từ tư tưởng, từ những suy nghĩ và ý niệm trước đó. Vì vậy, chúng ta cần tỉnh táo và cảnh giác với mọi tư tưởng mà mình có.
Đầu óc của chúng ta luôn đầy ắp những suy nghĩ và ý tưởng. Tuy nhiên, việc kiểm soát tư duy không phải lúc nào cũng dễ dàng. Đó là lý do tại sao việc tập Yoga để thư giãn cơ thể không đủ, chúng ta cần tập thiền để thực sự làm chủ tư duy của mình.
Trên con đường lọc bỏ yếu tố ô trược, con người cần nhận thức rõ quá trình tư duy của mình, để không chỉ hành động mà thiếu sự chủ động. Khi nhận biết được tư tưởng của mình, họ có thể điều chỉnh chúng để tốt hơn, chính xác hơn và phù hợp với mục tiêu mà họ theo đuổi. Con đường lọc bỏ này diễn ra như thế nào? Đầu tiên, là phải thay đổi lòng tham, lòng ích kỷ và lòng chiếm hữu, nghĩa là loại bỏ những ý muốn tham lam, thèm muốn trong tâm trí từ trước. Khi tâm hồn trong sạch, lời nói và hành động cũng trở nên trong sạch. Khi đã hiểu rõ luật Nhân quả, họ sẽ cố gắng lọc bỏ, loại bỏ những ý muốn ích kỷ trong tâm trí và tránh những hành động tham lam.
Ông Kris mỉm cười và nói rằng, ông bà cần lưu ý rằng có nhiều người chỉ làm việc tốt để mong được hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn sau này. Họ sẵn lòng chi tiền làm từ thiện để sau này được sinh ra trong một gia đình giàu có. Đây là một sự trao đổi. Tuy nhiên, việc bỏ đi một thứ để đổi lấy một thứ khác vẫn là hành động tham lam và ích kỷ. Hành động thiện cần được thực hiện với sự sáng suốt, biết rằng nếu không làm như vậy, con người chỉ gây thất vọng và đau khổ cho chính mình. Làm việc thiện là điều cần thiết để con người sống thoải mái, an nhiên và hòa hợp với bản thân và mọi người xung quanh. Nghĩ về kết quả chỉ là sự mong muốn, tham lam và ích kỷ. Tất cả những gì ta mong muốn và khao khát chỉ mang lại thất vọng. Không có mong muốn nào trở thành hiện thực như ta mong muốn. Sự mong muốn khiến con người chỉ tập trung vào tương lai xa xôi và không phù hợp với con đường hành động Karma Yoga. Hành động thiện phải được thực hiện bằng cả tâm hồn một cách tự nhiên, không có yếu tố cá nhân can thiệp vào, chỉ khi đó mới thực sự là việc thiện. Việc làm việc thiện để người khác biết không đúng vì trong đó có yếu tố cá nhân tiềm ẩn.
Angie tiếp tục hỏi: – Nếu luật Nhân quả là chính xác, thì tại sao hiện tại vẫn có những người thực hiện nhiều hành vi ác mà vẫn sống một cuộc sống thoải mái, hạnh phúc mà không gặp bất kỳ hậu quả nào.
Cả? Nhiều người gian lận, lừa bịp chiếm đoạt tài sản của người khác mà họ vẫn sống thoải mái, sức khỏe vẫn tốt. Tại sao họ không bị trừng phạt? Kris bật cười: – Họ chưa bị trừng phạt đó thôi. Họ sẽ gánh chịu hậu quả của những hành động của mình. Nếu không phải bây giờ thì sẽ đến lúc khác. Nếu không phải trong kiếp này thì trong kiếp sau. Vì cuộc sống của chúng ta có hạn nên không nhiều người có thể hiểu rõ những ảnh hưởng của vận mệnh.
Trong không gian vô cùng này, không có sự ngẫu nhiên, mà mọi thứ đều tuân theo những quy luật không thay đổi. Các hành tinh, mặt trời và mặt trăng đều tuân theo quy luật của vũ trụ. Trái đất nơi chúng ta sống cũng vậy, vì vũ trụ không phân biệt hay thiên vị ai cả. Gieo hạt gì sẽ gặt quả đó, và khi quả chín muồi, sự việc sẽ xảy ra.
Khi bước vào cuộc sống, mọi người đều mang theo những thói quen từ quá khứ hoặc kiếp trước. Những gì xảy ra trong cuộc sống hiện tại là kết quả của những hành động đã được gieo trồng từ trước đó. Mỗi hành động, lời nói và suy nghĩ của chúng ta đều có tác động và có thể mang lại kết quả ngay lập tức hoặc trong tương lai. Chúng ta là người chịu trách nhiệm cho số phận của mình và không ai có thể thay đổi điều đó. Mỗi giây phút, chúng ta đều có cơ hội để gieo trồng hoặc gây ra những hậu quả cho bản thân. Những hậu quả tốt hay xấu đều do chúng ta tạo ra và thời điểm chúng trổ quả phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Ông Kris dừng lại và kết luận rằng hôm nay chúng ta đã thảo luận về Karma Yoga – một triết lý cổ xưa mà hiện nay ít người biết đến. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là triết lý của toàn vũ trụ, không chỉ riêng Ấn Độ, mặc dù ngày nay nhiều người vẫn cho rằng nó bắt nguồn từ xứ Ấn.
Luật vũ trụ thực sự tồn tại và chi phối mọi vật thể, không chỉ ở một địa điểm cụ thể. Suốt hàng ngàn năm, các nền văn minh đã có những nhà triết học sáng suốt, nghiên cứu và khám phá về điều này. Những người được truyền bá từ những tri thức này đã đi khắp nơi.
Dạy cho tất cả mọi người. Tùy thuộc vào nơi họ đến, điều kiện và phong tục địa phương, phương pháp truyền dạy có thể thay đổi một chút, nhưng minh triết hay luật vũ trụ không bao giờ thay đổi.
Rất đáng tiếc, hiện nay, người ta thường chỉ quan tâm đến phương pháp mà ít ai đề cập đến triết lý. Vì vậy, đối với đa số mọi người, Yoga chỉ được coi là một phương pháp tập luyện thể chất và thiền định chỉ là một cách để thư giãn tinh thần.
Trong cuộc trò chuyện về chủ đề Karma Yoga, ông Thomas chia sẻ rằng bài học quan trọng mà ông đã học được qua các kiếp sống là phát triển tình thương. Điều này đã nảy sinh trong ông khi ông sống tại Atlantis, mặc dù lúc đó người dân chưa biết gì về tình thương. Vì một lý do nào đó, ông hối hận và có ý nghĩ thương yêu Kor trong những phút cuối cùng của cuộc sống đó.
Ông bị cuốn hút bởi một sức mạnh lớn, dẫn dắt ông đi qua những kiếp sau để khám phá, phát triển tình yêu thương.
Buổi trò chuyện giữa ông Thomas và ông Kris về Karma Yoga đã giúp cho vợ chồng ông hiểu sâu hơn về các quy luật vũ trụ như Luân hồi và Nhân quả. Dù ông Thomas đã từng học về những điều này trong quá khứ, nhưng ông vẫn chưa thực sự nhận thức được mức độ quan trọng của chúng.
Trong chu kỳ hiện tại, ông tiết lộ rằng hai quy luật này là những bài học quan trọng mà tất cả mọi người cần phải học để hiểu về cách vận hành của vũ trụ và hậu quả mà họ gây ra. Ông đi đến kết luận: “Hãy luôn suy nghĩ về hậu quả trước khi thực hiện bất kỳ hành động nào”.
Sau chuyến du lịch ngắn tại Colorado, chúng tôi trở về New York để tiếp tục công việc hàng ngày. Cuộc gặp gỡ đầy bí ẩn với ông Kris và những kỷ niệm về châu Atlantis đã khiến tôi bắt đầu suy nghĩ về khái niệm Luân hồi và Nhân quả.
Từ trước đến nay, tôi luôn là người thực tế, không tin vào những điều hoang đường viển vông. Nhưng hiện tại, tôi đã hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi những lời ông Kris nói. Liệu có phải mọi người đều đã trải qua nhiều kiếp sống để học hỏi? Nhưng con người đã làm gì, đã học được gì hay không học được gì? Họ đã tạo ra những gì và sẽ gặt hái được gì? Có phải những người mà chúng ta gặp trong cuộc đời này đều đã có mối liên hệ từ trước? Tại sao không có ai nhớ được kiếp trước? Nếu những việc làm trong quá khứ chi phối hoàn cảnh hiện tại và hành động hiện tại sẽ chi phối tương lai, thì tương lai của nhân loại sẽ ra sao? Trước đây, tôi chẳng bao giờ quan tâm đến ý nghĩa của cuộc sống, nhưng hiện tại nó là câu hỏi đang khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.
Một ngày nọ, khi tôi đang làm việc, Angie bước vào phòng: – Em và Connie mới đi xem triển lãm về Ai Cập ở viện bảo tàng New York. Từ khi nghe ông Kris nói, em đã chú ý và nhận ra rằng các món trang sức của vua chúa Ai Cập đều được gắn kết với những viên ngọc đẹp. Các lăng tẩm cũng được sơn phết bằng màu sắc của các loại ngọc. Nếu những viên ngọc này có tác dụng đặc biệt cho sức khỏe.
Em muốn mua một chiếc vòng đeo tay có gắn bảy viên ngọc như vậy nếu em khỏe. Anh có muốn đi mua cùng em không? Tôi thực sự không thích đi mua sắm. Angie lo liệu mọi vật dụng cần thiết, từ quần áo, giày dép đến các thứ khác, nhưng không hiểu sao hôm đó tôi lại đồng ý. Khu phố Kim Cương (Diamond District) nằm trên đường 47 và đường số 5 là nơi tập trung rất nhiều cửa hàng trang sức. Tại đây có đủ mọi loại hàng từ vàng bạc, kim cương, đến các loại ngọc quý, đủ thứ, đủ cỡ lớn nhỏ.
Gần như khách du lịch nào đến New York cũng phải ghé thăm khu vực này.
Chúng tôi ghé qua các cửa hàng danh tiếng như Tiffany, Bvlgari, Cartier, Van Cleef và nhiều nơi khác. Mỗi khi Angie đến, cô ấy luôn vui vẻ trò chuyện với nhân viên bán hàng và thể hiện mong muốn xem những chiếc vòng có đính ngọc quý. Vì chúng tôi là khách hàng quen, nên mỗi chủ cửa hàng đều mời chúng tôi vào phòng riêng dành cho khách hàng đặc biệt và trưng bày những món trang sức đặc biệt và hiếm để chúng tôi lựa chọn.
Trong lúc Angie đang xem những chiếc vòng đeo tay, tôi lơ đãng nhìn quanh và phát hiện trên tường có một bức ảnh treo, một chiếc nhẫn hình con bọ hung được gắn hồng ngọc. Tôi ngay lập tức nhận ra đó là chiếc nhẫn mà ông Kris thường đeo.
Tôi hỏi người bán hàng về chiếc nhẫn đó là gì. Người bán hàng trả lời rằng đó là một chiếc nhẫn của các Pharaoh thời xưa.
Tôi hỏi thêm: – Có thể cho tôi xem chiếc nhẫn đó không? Người bạn hàng bật cười: – Đó chỉ là một bức ảnh để trang trí thôi, chiếc nhẫn này là một cổ vật hiện đang được trưng bày tại viện bảo tàng ở Luân Đôn.
Không biết tại sao tôi cảm thấy chiếc nhẫn đó rất quen thuộc.
Các ông có thể tạo ra một chiếc nhẫn tương đương không? Người bán hàng bất ngờ.
Đó là chiếc nhẫn cổ xưa nhưng hiện nay không ai đeo kiểu nhẫn như vậy nữa.
Angie nhìn tôi chăm chăm vào chiếc nhẫn và nói: – Nếu tôi đặt làm một chiếc nhẫn giống hệt như vậy, các ông có thể làm được không? Người bán hàng trả lời: – Công ty chúng tôi có thể chế tác bất kỳ loại trang sức nào mà quý khách muốn. Tuy nhiên, đây là một trường hợp đặc biệt, nên chúng tôi sẽ liên hệ với thợ kim hoàn để có ý kiến.
Angie đồng ý và nói: – Đây là địa chỉ của chúng tôi. Tôi muốn đặt một chiếc nhẫn giống hệt như bức hình kia. Bạn có thể liên hệ với thợ kim hoàn và thông báo giá cả và thời gian cho tôi được không?
Angie ra khỏi tiệm, tò mò hỏi: – Anh thích cái chiếc nhẫn đó à? Nhưng anh chưa bao giờ đeo nhẫn đấy phải không? Tôi gật đầu: – Không hiểu sao tôi đã có cảm giác thích nó ngay từ lúc nhìn thấy.
Angie hân hoan chia sẻ: – Thật tuyệt vời, bây giờ em đã mua được món mà anh thích rồi, trước đây anh chưa bao giờ quan tâm đến những thứ như vậy.
Tuy nhiên, sau khi trở về văn phòng, tôi quá bận rộn và đã quên hoàn toàn việc đi mua sắm cùng Angie. Khoảng ba tuần sau đó, trong khi tôi đang làm việc, cô thư ký bước vào và thông báo rằng có một người thợ kim hoàn muốn gặp tôi. Đó là một ông lão Do Thái nhỏ bé, đeo cặp kính dày cộm. Ông tự giới thiệu: “Tôi là một thợ kim hoàn chuyên về trang sức cổ xưa của Ai Cập, Ba Tư và Ấn Độ. Tôi nghe nói ông muốn có một chiếc nhẫn hình con bọ hung theo kiểu Ai Cập. Tôi đã được hãng điều đến để làm việc với ông.”
Trước khi đo ngón tay để làm nhẫn, ông lão hỏi: – Ông muốn đeo chiếc nhẫn này ở ngón nào?
Không hiểu sao tôi trả lời ngay mà không cần suy nghĩ: – Tôi muốn đeo nó vào ngón tay trỏ .
Ông già bất ngờ: – Tại sao lại là ngón trỏ? Mọi người thường đeo nhẫn vào ngón giữa hoặc ngón áp út, gọi là ngón nhẫn. Chỉ có các vị Pharaoh xưa kia mới đeo nhẫn vào ngón trỏ.
Ông lão suy tư sâu xa, sau đó phát biểu: – Chiếc nhẫn trên ngón tay trỏ biểu trưng cho sức mạnh của Pharaoh. Khi Pharaoh đưa ngón tay trỏ đeo nhẫn ra lệnh, đó là quyền lực tối cao và mọi người phải vâng phục tuyệt đối.
Tôi rất ngạc nhiên: – Làm sao ông biết những điều đó? Ông lão cười: – Tôi là một thợ kim hoàn chuyên về trang sức thời cổ. Tôi đã phải nghiên cứu để hiểu rõ về các loại trang sức và nguồn gốc của chúng. Đây là một chiếc nhẫn của các Pharaoh Ai Cập, được coi là dấu ấn của hoàng gia trong quá khứ. Mặc dù bên ngoài nhẫn giống nhau, nhưng mỗi Pharaoh lại khắc những dòng chữ trên đó theo ý nguyện của mình. Chỉ có những người có chuyên môn sâu mới biết điều này.
Tôi tò mò hỏi tiếp: – Vậy chiếc nhẫn trưng bày tại viện bảo tàng Luân Đôn thuộc về ai? Và trên đó có khắc chữ gì? Ông lão mỉm cười: – Đó là chiếc nhẫn của một Pharaoh thuộc triều đại cuối cùng của vương triều Ai Cập trước khi bị người Assyria xâm lăng khoảng hơn sáu trăm năm trước Công nguyên. Chiếc nhẫn đó có khắc dòng chữ “Xin thần Thái Dương Amun Ra [3] che chở cho tôi”. Bên trong, có hình chim ưng Horus, biểu tượng của công lý.
Tôi bất ngờ trước sự am hiểu về chiếc nhẫn của người thợ kim hoàn: – Ông còn có thêm thông tin gì về nó không? Ông lão Do Thái tiếp tục:
Chiếc nhẫn đó có một viên hồng ngọc được khảm trên đó. Hồng ngọc biểu trưng cho đức tin, cho nên tôi cho rằng vị Pharaoh này phải là người có lòng tin tôn giáo sâu sắc. Mỗi khi lên ngôi, các Pharaoh đều yêu cầu giáo sĩ thực hiện nghi thức đặc biệt để truyền bùa chú vào trang sức, nhằm bảo vệ cho họ. Hiện tại, chiếc nhẫn này đang được trưng bày tại một viện bảo tàng ở Luân Đôn, do đó không có gì đáng lo ngại.
Tôi bất ngờ hỏi: – Tại sao lại có nguy hiểm? Ông lão đáp: – Khi Pharaoh qua đời, các đồ vật, trang sức được chôn cùng với họ.
Vì vậy, những ngôi mộ này thường bị trộm đến đào, khai quật để lấy những vật quý giá. Nhiều người sưu tầm đồ cổ mua những thứ này mà không biết đến nguy hiểm của chúng. Hầu hết các vật phẩm được chôn cất cùng với vua chúa đều được bảo vệ bằng bùa phép, hoặc có những xác ướp đã được giáo sĩ giam giữ một số sinh vật từ cõi âm để bảo vệ mồ. Do đó, những người mua đồ cổ thường gặp phải những tác động vô hình này. Nếu họ không chết thì cũng gặp rủi ro về tài chính và cuộc sống của con cháu họ cũng không yên ổn.
Tất nhiên, ngày nay không ai tin vào những câu chuyện như vậy. Một số người cho rằng đó chỉ là những câu chuyện huyền thoại nhằm mục đích đe dọa mọi người, không cho họ tiếp cận với những nơi chôn cất đó thôi. Tuy nhiên, chắc ông cũng biết đã có nhiều nhà khảo cổ chết một cách bí ẩn. Một số triệu phú đam mê sưu tầm đồ cổ của vua chúa thời xưa cũng gặp phải những tai nạn đáng tiếc đột ngột.
Ông lão Do Thái nhìn thấy sự nghi ngờ trên khuôn mặt của tôi và tiếp tục nói: – Chắc ông cũng biết về ngôi mộ của Pharaoh Tutankhamun hay “King Tut”. Đây là ngôi mộ đã tồn tại suốt hàng ngàn năm, vẫn còn nguyên vẹn và không bị trộm cắp. Vào năm 1923, nhà khảo cổ Howard Carter và Lord Carnarvon đã phát hiện ra ngôi mộ này. Tuy nhiên, sau khi đào mồ, Lord Carnarvon đã bất ngờ qua đời vì một nguyên nhân không rõ ràng.
Ông phụ tá của George Gould trong công việc đào mồ cũng qua đời do tai nạn chỉ vài ngày sau đó. Trong số 40 người có mặt khi khai quật mộ “King Tut”, có 25 người cũng qua đời trong vòng 3 tháng. Nhiều người cho rằng ngôi mộ đã bị rải độc.
Độc nhưng cho đến nay không ai tìm được bằng chứng nào cho thấy có chất độc trong ngôi mộ .
Tôi cười: – Có lẽ đó chỉ là tin đồn được báo chí phóng đại lên thôi.
Người thợ kim hoàn gật đầu: – Với kinh nghiệm lâu năm trong nghề, chúng tôi hiểu rõ hơn ai hết về mọi thứ. Đối với chúng tôi, việc làm cổ vật và trang sức từ những vật phẩm lấy từ mồ mả và nơi thờ cúng là điều không thể chấp nhận.
Ông lão nói tiếp khi thấy tôi lắc đầu không tin rằng một trong những món trang sức nổi tiếng là viên kim cương “Hy vọng” (Hope) màu xanh được lưu giữ trong viện bảo tàng Smithsonian tại Washington D.C. Nó có nguồn gốc từ viên kim cương rất lớn được gắn vào trán của một vị thần trong một ngôi đền cổ tại Ấn Độ. Trong thời nội chiến giữa các tiểu vương, một vị chỉ huy nhóm loạn quân đã gỡ viên kim cương đó xuống để bán. Chỉ vài ngày sau, ông này đột ngột qua đời và viên kim cương đó được bí mật mang về châu Âu bởi một lái buôn trang sức người Pháp tên Jean Tavernier.
Theo tài liệu, Tavernier đã bán viên kim cương này cho triều đình Pháp để gắn lên vương miện của vua Louis thứ mười bốn và được gọi là viên ngọc xanh của nước Pháp (Le Bleu de France). Sau khi bán viên kim cương này không lâu, Tavernier đã qua đời trong xưởng làm trang sức của ông tại Paris. Sau khi vương miện được đội trong lễ đăng quang, vua Louis thứ mười bốn cũng mắc bệnh, da thịt ung thối và qua đời vì nhiễm độc. Không chỉ vậy, tất cả con cái của ông vua này cũng chết thảm. Có người chết đuối, có người chết cháy, có người chết vì ngã ngựa lúc đi săn, chỉ có một người duy nhất sống sót.
Vương miện đã được chuyển giao cho vua Louis thứ mười sáu. Ông đã quyết định tháo viên kim cương đó ra để tạo thành một chiếc vòng đeo cổ cho nữ hoàng Marie Antoinette. Có lẽ ông đã biết rằng chỉ vài năm sau đó, cả hai người đều gặp kết cục bi thảm trên chiếc máy chém trong cuộc Cách mạng Pháp năm 1792. Tài sản của triều đình đã được phân chia cho những người lãnh đạo của cuộc cách mạng. Theo tài liệu của các thợ kim hoàn thời đó, viên kim cương đã được mang qua Anh và rơi vào tay ai đó.
Wilhelm Fals, một thợ kim hoàn nổi tiếng, đã cắt một viên kim cương lớn thành bốn viên nhỏ hơn để dễ bán. Việc này được thực hiện vì không nhiều người có khả năng mua một viên kim cương nặng hàng trăm carat. Tuy nhiên, sau đó không ai nghe đến chuyện của bốn viên kim cương này trong một thời gian dài. Nguyên nhân là do con trai của Wilhelm Fals đã giết ông để cướp gia tài. Cậu con trai đã bị kết án và chết trong nhà ngục.
Theo tài liệu của các thợ kim hoàn, chàng trai trẻ Somerset, một triệu phú Hoa Kỳ, đã mua một viên kim cương được gọi là “Hope”, có ý nghĩa là hy vọng (nhưng lại mang đến hậu quả bi đát cho những người sở hữu). Viên kim cương quý tộc này được mệnh danh là “Trái tim của Đại dương”. Hai vợ chồng đã trải qua tuần trăng mật đầy sóng gió trên chiếc tàu định mệnh Titanic. Chắc chắn ông ta cũng biết những gì đã xảy ra với chiếc tàu Titanic.
Viên ngọc thứ hai rơi vào tay Nga Hoàng Nicholas và sau đó được chế tác thành một chiếc vòng ngọc đẹp được đeo trên cổ của hoàng hậu Alexandria. Về cuộc Cách mạng Bolshevik năm 1917 và những gì đã xảy ra với gia đình Nga Hoàng, tôi không biết chính xác. Hiện tại, tôi không rõ ngọc đó đã rơi vào tay ai.
Viên kim cương thứ ba đã rơi vào tay triệu phú Hy Lạp Simon Maoncharides. Không lâu sau khi mua viên kim cương, ông ta đã gặp tai nạn xe hơi và qua đời. Hiện tại, không ai biết chính xác viên kim cương này thuộc về ai. Một số người cho rằng nó đã được triệu phú Onassis mua và tặng cho bà Jacqueline Kennedy trong ngày cưới. Nếu đúng là viên kim cương này vẫn nằm trong gia đình Kennedy, thì đó thực sự là một bi kịch. Gia đình này đã trải qua nhiều biến cố và ông ta chắc chắn đã biết về điều đó. Tuy nhiên, điều này chỉ là tin đồn và không ai biết chắc chắn sự thật.
Viên kim cương thứ tư, lớn nhất và đẹp nhất, được bán tại Thụy Sĩ, nhưng giá trị của nó quá lớn đến mức không ai có thể mua được. Sau nhiều năm, Evalyn McLean, con gái của triệu phú McLean, đã sử dụng toàn bộ gia tài mà cha để lại để mua viên kim cương này. Cô thường đeo nó trong các buổi dạ hội của giới điện ảnh và được báo chí ca ngợi là người sở hữu món trang sức đẹp nhất. Tuy nhiên, không lâu sau đó, cô đã qua đời một cách bí ẩn và đáng ngờ khi còn rất trẻ.
Evalyn nợ nhiều tiền vì sống xa xỉ và phung phí. Để xoay sở, viên kim cương đã rơi vào tay chủ ngân hàng Thomas Hope.
Kể từ khi sở hữu viên kim cương, gia đình ông này đã gặp rất nhiều khó khăn. Họ đã trải qua ly dị, xung đột giữa vợ chồng và tranh chấp tài sản, gây ra nhiều vụ việc gây chú ý trên báo chí. Do đó, viên kim cương này đã trở thành biểu tượng của sự xui xẻo đối với những người sở hữu nó. Cuối cùng, gia đình tỷ phú Hope đã phải bán hết tài sản. Người cháu của ông Hope đã quyết định tặng viên kim cương này cho viện bảo tàng Smithsonian để trưng bày, vì không ai dám giữ hay sở hữu nó nữa.
Tôi gật đầu: – Tôi nghe nói về bốn viên kim cương Hope và những sự cố đã xảy ra với những người liên quan, nhưng tại sao ông biết về nguồn gốc và hành trình của những viên kim cương này? Ông lão Do Thái tự hào nói: – Công trình tạo ra những món trang sức có giá trị lớn đều được ghi chép cẩn thận. Tất cả các thợ kim hoàn thiết kế những tác phẩm nghệ thuật đều ghi lại công trình của họ vào tài liệu để cho thế hệ sau học hỏi. Đây là truyền thống của nghề kim hoàn đã tồn tại hàng trăm năm.
Ông lão kết luận rằng những bảo vật có giá trị lớn thường đi kèm với những điều không may. Những của cải phi nghĩa do cướp bóc, chiếm đoạt đều mang lại những điều bất hạnh mà không mấy ai biết. Khi một vật có giá trị lớn, nó khiến cho người khác thèm muốn và gây ra phiền toái. Nếu không gặp trộm cắp thì cũng bị chiếm đoạt. Vì lòng tham mà biết bao nhiêu người đã phải hy sinh hoặc mất tài sản. Lịch sử đã chứng minh rằng những ai lấy của từ người khác một cách phi nghĩa đều phải trả một cái giá rất đắt – không phải lúc này thì ắt cũng vào lúc khác. Càng chiếm đoạt nhiều thì gặp nhiều điều không may, nếu không gặp nghèo khổ thì cũng gặp tai nạn bất ngờ, và lúc đó có hối hận thì cũng đã quá muộn. Dù chỉ là người thiết kế trang sức, tôi đã nghiên cứu kỹ những tài liệu về trang sức.
Tôi đã học được một ít về kim hoàn từ những ngày xưa. Hôm nay tôi có một câu chuyện vui để kể cho ông nghe, mong ông không quan tâm đến nó.
Sau hai tháng, tôi nhận được một chiếc nhẫn có hình con bọ hung, giống hệt như chiếc nhẫn trong tấm hình của tiệm trang sức. Đúng là một tác phẩm tuyệt vời được thợ kim hoàn này thực hiện với sự khéo léo và tài năng. So với chiếc nhẫn trong bảo tàng Luân Đôn, nó thực sự giống nhau.
Một ngày nọ, tôi ngồi trong căn phòng làm việc, tình cờ tập trung vào chiếc nhẫn mà tôi đã đeo suốt vài tuần qua. Bất ngờ, một lực lượng bí ẩn xuất hiện khiến tôi mê mẩn và mất tình thời gian.
Tôi đứng trước một ngôi đền nằm ngoài sa mạc, bên cạnh một nhóm giáo sĩ. Tôi cố gắng tự lập, nhưng như lần trước, tôi nhận ra rằng tôi đang tồn tại trong một thể xác khác với thể xác hiện tại. Với kinh nghiệm đã có, tôi tự hỏi liệu có phải tôi đang nhớ lại một tiền kiếp khác nữa không?
Lúc đó, cả cơ thể tôi run lên và tôi nghe rõ giọng vị giáo sĩ nói: – Đã đến lúc bạn phải nắm bắt cơ hội quan trọng này – nếu không, không còn cơ hội nào khác. Dù bạn không hoàn toàn là người Ai Cập nhưng bạn vẫn mang dòng máu hoàng gia. Bạn được sinh ra ở Ai Cập, có liên quan đến quốc gia này và bạn có trách nhiệm với nơi mình sinh ra. Khi sinh ra ở Ai Cập, bạn đã hấp thụ tinh khí của đất nước này và bạn có nợ với nó. Dù bạn muốn hay không, số phận của bạn và quốc gia này có mối liên hệ chặt chẽ. Bạn phải hoàn thành trách nhiệm của một công dân của quốc gia này, đặc biệt là khi quốc gia đang gặp khó khăn.
Dù biết rằng mình đang tồn tại trong một thân xác khác, tâm trí của tôi vẫn bị lúng túng vì không hiểu rõ tình huống hiện tại. Đúng lúc đó, một người lính trang nghiêm bước vào: – Kính ngài, quân sĩ đã sẵn sàng. Chúng tôi đang chờ lệnh từ ngài.
Tôi không biết phản ứng thế nào vì tâm trí vẫn đang mơ hồ, nhưng có vẻ như tôi không còn là Thomas nữa mà là một người khác, sống trong một thực tại khác.
Trong một kiếp khác, trong một thời đại khác, tiềm thức của tôi bỗng trở nên sống động và quá khứ hiện lên trước mắt tôi như một bộ phim.
Tôi có tên là Akhon, con của một người phụ nữ không phải là hoàng hậu trong triều đại Ai Cập.
Khi xưa, khi Pharaoh đi qua vùng hạ lưu sông Nile, ông đã bắt được một số nô lệ người Kush, trong đó có nhiều phụ nữ xinh đẹp. Ông đã đưa những người này về cung làm phi tần. Tuy nhiên, vì tôi là con của hai dòng máu, Ai Cập và Kush, và hai quốc gia này thường xuyên gây chiến với nhau, nên tôi không được coi là hoàng tử chính thức. Dù cuộc sống trong cung điện trông xa hoa và sung sướng, nhưng thực tế bên trong lại là một bãi chiến trường với những âm mưu và tranh chấp giữa các phe nhóm cung phi. Với tư cách là một đứa trẻ mang hai dòng máu và con của một thứ phi không được sủng ái, tôi đã trở thành nạn nhân của những cuộc tranh chấp này.
Sau khi mất mẹ, tôi bị những hoàng tử khác trong cung đối xử kỳ thị và tàn bạo. Nhưng với dòng máu người Kush chảy trong tôi, tôi trở nên kiên cường hơn và nuôi dưỡng ý chí phục thù. Một ngày, tôi bị đám hoàng tử đuổi đánh dữ dội, buộc phải trốn vào đền thờ thần Thái Dương. Tại đây, tôi được các giáo sĩ che chở và từ đó, đây trở thành nơi trú ẩn thường xuyên của tôi. Nhờ sự thương tình và dạy dỗ của các giáo sĩ, tôi đã học được nhiều về tôn giáo Ai Cập.
Các đền thờ ở Ai Cập không chỉ là nơi tôn giáo mà còn là một hệ thống giáo dục đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực như thiên văn học, địa lý, kiến trúc, y học, âm nhạc và nhiều lĩnh vực khác. Người học có thể chọn chuyên sâu vào các lĩnh vực này. Một số ít được đào tạo để trở thành giáo sĩ, sống trong các đền thờ và thực hiện các nghi thức, dâng cúng, thực hiện bùa chú và xử lý xác chết.
Tôn giáo Ai Cập có nguồn gốc từ thời xa xưa, không ai biết chính xác nó xuất hiện từ khi nào và từ đâu. Theo giáo lý của tôn giáo này, vào thời kỳ ban đầu, trái đất và bầu trời chỉ là một khối hỗn độn đen tối. Sau đó, thần Thái Dương Ra xuất hiện và chiếu sáng mặt trời, mang lại sự sắp xếp cho thế giới bằng cách phân biệt giữa ban ngày và ban đêm, hay các mùa trong năm và thời tiết. Giáo lý của Thái Dương Ra cũng dạy rằng cuộc sống con người cũng giống như sự thay đổi giữa ban ngày và ban đêm, tức là con người sinh ra, sống và sau đó qua đời.
Sinh sống tại một thế giới khác, đời sống sau khi chết được coi trọng hơn đời sống hiện tại và việc chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu này được lên kế hoạch cẩn thận từng chi tiết. Theo quan niệm của người Ai Cập, sau khi qua đời, con người sẽ nhập vào một thế giới tối tăm, u ám với nhiều ma quỷ và các thực thể xấu xa của cõi âm. Nếu không được hướng dẫn đúng cách, họ sẽ bị mắc kẹt trong thế giới này và trở thành nô lệ cho các loài ma quỷ hoặc sinh vật của cõi âm, mãi mãi sống trong sự đau khổ. Tuy nhiên, nếu nhận được sự giúp đỡ từ các thần linh thông qua các nghi lễ cúng lễ, bùa phép và thần chú đặc biệt, họ sẽ được đưa lên cõi của các vị thần và trở thành một vị thần sung sướng sống ở đó.
Dựa trên quan điểm này, tôn giáo Ai Cập tán thờ nhiều thần linh vì chúng có thể giúp họ ở thế giới sau. Vì vậy, việc dâng cúng phẩm vật cho các vị thần là rất quan trọng để làm hài lòng các vị thần, bởi chúng có thể ban phước hoặc mang lại tai họa, tùy thuộc vào giá trị của các phẩm vật được dâng cúng.
Pharaoh, người lãnh đạo Ai Cập, đóng vai trò trung gian giữa dân chúng và thần linh, có trách nhiệm xây dựng đền thờ và cúng dường để đảm bảo sự ổn định và thịnh vượng trong xã hội.
Ai Cập là một quốc gia có phần lớn đất đai là sa mạc, do đó, các xác chết được chôn cất ít khi bị hư hoại và có thể được bảo tồn trong thời gian dài.
Tuy nhiên, khi khai quật, những xác khô này đều có hình dáng kinh dị, xấu xí. Người Ai Cập tin rằng sau khi chết, có một cuộc sống bất tử, vì vậy việc bảo quản xác, xây dựng mồ mả, lăng tẩm là một nghi lễ quan trọng để đảm bảo người chết sẽ giữ được hình dáng đẹp như khi còn sống và được thần linh đưa đến những cảnh đẹp.
Theo đó, người ta đã thiết lập các nghi thức mummification để cho linh hồn của người chết có thể nhập vào xác thân khi sống ở thế giới bên kia. Tùy thuộc vào cách xây dựng và bảo quản mồ mả, cùng với việc thực hiện các nghi thức, bùa chú và lễ nghi của các giáo sĩ, người chết sẽ được thần linh đưa về sống một cuộc sống hạnh phúc ở thế giới bên kia. Đối với những vị vua, quan lại và những người giàu có, việc xây dựng mồ mả và duy trì xác thân sau khi chết đã trở thành một truyền thống sâu sắc trong văn hóa của đất nước này.
Hầu hết mọi người đều nên quan tâm đến việc xây dựng nghĩa trang cho bản thân khi còn sống.
Trong suốt hơn sáu ngàn năm lịch sử của Ai Cập, xung đột giữa giáo sĩ và Pharaoh xảy ra thường xuyên do tranh chấp quyền lợi. Khi giáo sĩ mạnh, họ yêu cầu triều đình xây nhiều đền thờ, nuôi nhiều giáo sĩ và cung cấp cúng phẩm như thức ăn, rượu, vàng bạc, châu báu, nô lệ và phụ nữ để hưởng thụ. Khi Pharaoh mạnh, họ không muốn tiêu pha ngân quỹ cho đền thờ và cúng phẩm, mà tập trung vào việc xây mồ mả cho chính mình và chỉ riêng họ được hưởng lợi từ những điều này.
Khi tôi tròn mười hai tuổi, nhờ sự can thiệp của tu sĩ trưởng đền thờ Thái Dương, tôi được gửi đến vùng biên giới hoang vu dưới sự giám sát của một võ quan già. Đối với các hoàng tử trong cung, tôi bị coi là “đi đày” và họ cho rằng tôi không thể sống sót ở vùng biên thùy hoang dã như vậy. Tuy nhiên, tại đây tôi được võ quan này coi như con và được dạy dỗ cẩn thận. Cuộc sống ngoài sa mạc khắc nghiệt đối với những người yếu đuối, nhưng nó đã nung nấu trong tôi ý chí cương quyết không chùn bước trước khó khăn. Nhờ được giáo dục và chỉ dẫn tận tâm của võ quan, người tôi coi như cha nuôi, khi trưởng thành, tôi trở thành trợ thủ đắc lực cho ông và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Khi võ quan qua đời, tôi trở thành người chỉ huy quân lực trấn đóng vùng biên thùy sa mạc.
Vào năm đó, Ai Cập đang trải qua một thời kỳ khó khăn khi Pharaoh bị băng hà và các hoàng tử đấu tranh để tranh giành ngôi vua. Trong thời gian ngắn, đã có bốn người lên ngôi, nhưng không ai duy trì được vị trí này trong thời gian dài, dẫn đến tình hình xã hội trở nên hỗn loạn. Triều đình không còn kiểm soát được tình hình và các quan lại trên khắp đất nước đã tranh giành, cướp bóc tài sản một cách tàn bạo. Trong lúc này, người Nubia từ phía Nam đã tận dụng cơ hội để xâm chiếm lãnh thổ Ai Cập. Vị vua da đen của Nubia tự xưng là Pharaoh và lập ngay một triều đại mới trên đất Ai Cập với ý định thống trị quốc gia này.
Hôm đó, Satt, một vị linh mục tôn giáo thờ phượng Thái Dương tìm đến tôi. Ông nói:
Hiện tại, tình hình đang rất khẩn cấp vì người Nubia đang tiến quân để chiếm đóng Ai Cập, trong khi triều đình đang rối ren vì cuộc tranh chấp giữa các phe phái hoàng tộc.
Bây giờ là thời điểm ngài phải quay trở lại và đảm nhận vị trí Pharaoh, vì không ai có thể lãnh đạo Ai Cập trong thời điểm hiện tại nữa.
Tôi đáp: – Ta tự nhận thức rõ về bản thân, ta chỉ là đứa con của một phi tần không được công nhận, và còn là người mang hai dòng máu. Người Ai Cập không bao giờ chấp nhận một người mang dòng máu Kush trở thành Pharaoh của đất nước này.
Satt mỉm cười: – Chúng tôi, các giáo sĩ, đã thảo luận với nhau về vấn đề này và đề xuất tổ chức lễ cưới giữa ngài và công chúa Nedjem. Hiện tại, Ai Cập đang được cai trị bởi Pharaoh Amose, cha của công chúa Nedjem, nhưng ông ta là một vị vua không tài, say mê rượu chè, chỉ quan tâm đến việc thưởng thức cuộc sống mà không quan tâm đến việc quốc gia.
Phe nhóm quan triều đưa ông lên ngôi Pharaoh để tăng thuế và biển thủ ngân quỹ. Tuy nhiên, ngôi vị của ông đang bị đe dọa bởi cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm hoàng tộc. Để giữ vững ngôi vị, ông quyết định đưa tướng lĩnh chỉ huy quân lực làm rể triều đình. Sau khi kết hôn với công chúa Nedjem, ông sẽ trở thành hoàng tử chính thức và có thể tái lập trật tự xã hội, chấn chỉnh triều đình và trở thành Pharaoh.
Tôi bất ngờ và thắc mắc về đề xuất không mong đợi này: – Nhưng hiện tại Amose đang làm Pharaoh đúng không.
Satt cười lớn: – Xin hãy yên tâm, chúng tôi, những giáo sĩ, đã lên kế hoạch. Khi ngài trở thành hoàng tử chính thức sau những nỗ lực dũng cảm trong việc đánh bại kẻ xâm lược và được lòng người dân, chúng tôi sẽ đảm bảo cho tương lai của Amose.
Tôi ngạc nhiên.
Amose là một vấn đề hậu sự à? Làm cách nào chúng ta có thể cạnh tranh với cha vợ của mình? Satt nở nụ cười: – Chỉ cần sử dụng một liều thuốc độc do một y sĩ tạo ra, mọi thứ sẽ yên bình ngay lập tức. Bạn không cần phải lo lắng về điều này.
Sau một khoảng thời gian yên tĩnh, tôi bắt đầu nghi ngờ: “Việc làm đó có lợi ích gì cho các ông?” Satt nghiêm túc trả lời: “Ngài đã được rèn luyện trong đền thờ Thái Dương từ khi còn nhỏ.”
Ngài đã được các vị giáo sĩ huấn luyện về kiến thức tôn giáo, vì vậy ngài là người của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng sau khi lên ngôi Pharaoh, ngài sẽ thực hiện việc tu bổ, xây dựng nhiều đền thờ, bảo vệ quyền lợi của các giáo sĩ và phát triển tôn giáo ở xứ Ai Cập.
Sau khi nghe xong, tôi nhận ra ngay: “Thì ra như vậy, các giáo sĩ đã chăm sóc và đào tạo tôi từ khi còn nhỏ, đưa tôi vào biên thùy để tránh xung đột trong triều đình chỉ là một kế hoạch đã được tính toán kỹ lưỡng. Vậy là tôi chỉ là một công cụ trong cuộc chơi chính trị nhằm tăng sức ảnh hưởng và quyền lực của nhóm giáo sĩ này thôi”.
Kế hoạch có vẻ khả thi và tôi không thể từ chối lời đề nghị hấp dẫn này. Mọi việc diễn ra theo dự định của Satt. Sau lễ cưới, tôi đã tiến hành dẹp loạn trong triều. Các hoàng tử và quan hầu khắc nghiệt đã bị đày xuống hầm tối để làm mồi cho sư tử đói. Sau đó, tôi đã tấn công Nubia và chỉ sau vài trận đánh lớn, vua xứ này đã đầu hàng và hàng năm phải đóng cống vàng bạc, châu báu và nô lệ cho triều đình. Trật tự trong nước đã được khôi phục và dân chúng rất vui mừng. Trong bữa tiệc mừng chiến công của tôi, Pharaoh Amose đã uống say và bất ngờ qua đời. Vào buổi tối đó, tôi đã được tôn làm Pharaoh.
Ngày hôm sau, Satt đã mời một thợ kim hoàn đến tạo ra một chiếc nhẫn vương ấn cho tôi. Thợ kim hoàn lễ phép nói: – Xin Pharaoh ra chỉ thị để hạ thần tạo ra chiếc vương ấn cho ngài ạ.
Tôi đáp:
Tôi mong muốn sở hữu một chiếc nhẫn đính kèm một viên hồng ngọc to lớn, trên đó được khắc chữ “Xin thần Thái Dương Amun Ra che chở cho tôi”. Với cái tên Akhon (chim ưng) của tôi, tôi đã chọn Horus, vị thần Công lý có khuôn mặt giống chim ưng, là thần bảo hộ của quốc gia.
Satt rất vui mừng nói: – Chỉ nghe như vậy thôi, chúng tôi, những giáo sĩ, biết rằng chúng tôi đã không sai khi lựa chọn ngài. Ngài không chỉ xứng đáng trở thành Pharaoh cai trị đất nước này mà còn là một người có lòng tin sâu sắc.
Dưới sự bảo trợ của thần Công lý Horus, quốc gia này sẽ thịnh vượng trong thời kỳ cai trị của ngài.
Kể từ khi trở thành Pharaoh, tôi đã ban hành những luật lệ nghiêm ngặt để cải thiện xã hội, mà trước đây đã suy đồi từ thời của những vị Pharaoh trước. Việc đầu tiên là trừng trị những kẻ không tuân thủ pháp luật, nhưng vẫn được bảo vệ bởi các quan lại tham nhũng. Những kẻ trộm cắp sẽ bị đưa ra vùng biên giới làm công việc xây dựng lăng tẩm. Những kẻ tham nhũng, chiếm đoạt tài sản triều đình sẽ bị đày ra sa mạc và không được sống ở thành thị nữa. Những kẻ giàu có lừa đảo và cướp đoạt tài sản người khác sẽ bị xử tử hoặc bị giam trong trại cùi để sống chung với người tàn tật. Hệ thống pháp luật trong tay tôi rất nghiêm khắc và tàn bạo, nhưng tôi không ngần ngại thi hành nó, bất chấp mọi điều. Với lòng căm thù từ việc bị đối xử tàn nhẫn trong quá khứ và dòng máu hung dữ của dân tộc Kush chảy trong tôi, chỉ trong thời gian ngắn, tôi đã trở thành một Pharaoh có quyền lực tuyệt đối và độc đoán. Mỗi khi tôi giơ ngón tay đeo chiếc vương ấn lên, toàn bộ triều đình đều run sợ trước quyền lực của tôi.
Sau khi chứng kiến những âm mưu tàn bạo của đám quan hầu trong cung, khi lên ngôi Pharaoh, tôi đã thành lập một nhóm thám tử tinh nhuệ và đáng tin cậy để kiểm soát mọi thứ, từ nội cung đến triều đình. Mục tiêu của tôi là đảm bảo không có việc gì có thể trốn thoát khỏi sự quan sát của tôi. Tôi đã thay thế toàn bộ quan lại trong triều đình và chỉ tuyển chọn những người có tài năng được huấn luyện bởi các giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương để đảm nhiệm các chức vụ quan trọng.
Tôi cũng tham gia cuộc chiến để đánh bại các quốc gia xung quanh, thu được nhiều tài sản quý giá như vàng, bạc, châu báu và nô lệ, sau đó tôi đã sử dụng những tài sản đó để xây dựng nhiều công trình.
Đền thờ Thái Dương tại các vùng biên địa, do đó tôi càng được giới giáo sĩ ủng hộ triệt để .
Mặc dù triều đình đã ổn định, quốc gia tuân thủ luật pháp và xã hội có trật tự, nhưng tôi vẫn không thể cảm thấy hài lòng. Trái tim tôi vẫn cảm thấy trống rỗng và lạ lùng. Các cuộc vui trong triều và các nghi thức tôn giáo không đem lại sự thoải mái cho tôi.
Có vẻ như tôi vẫn còn muốn một cái gì đó mà tôi không thể đặt tên.
Trong một đêm tối không trăng, tôi đứng một mình trong cung điện, ngắm nhìn khung cảnh sa mạc bát ngát bên ngoài và tràn đầy nỗi buồn không tận.
Sau bao cống hiến và khó nhọc, sau bao chiến thắng oai hùng, sau bao sự kính nể và địa vị tối cao, tôi vẫn tự hỏi liệu cuộc đời có còn điều gì khác nữa không. Khi sống trong sa mạc, đêm đêm tôi ngồi một mình, nhìn vào không gian vô tận và tự đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống. Dù từ nhỏ đã được giáo sĩ dạy dỗ trong đền thờ Thái Dương, nhưng tôi không hài lòng với những điều đó. Có vẻ như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy tôi tìm hiểu sâu hơn, nhưng lúc đó tôi quá bận rộn với nhiều việc khác. Hiện tại, tất cả đã hoàn thành, tôi trở thành Pharaoh, có quyền uy tối cao, sống trong cung điện vàng ngọc, có tất cả những gì mà con người ao ước. Nhưng tôi vẫn bị ám ảnh bởi cảm giác thiếu thốn và cô đơn kỳ lạ. Đêm đêm tôi thao thức vì cảm giác trống vắng ấy. Tôi cảm thấy mình cần phải làm một điều gì đó, nhưng không biết phải làm gì. Tất cả những gì có thể làm, tôi đã làm xong. Bây giờ, đáng lẽ phải là lúc tôi tận hưởng thành quả của công việc mình đã làm! Nhưng tôi không thể.
Tôi nhìn lên trời xanh, ngắm những ngôi sao lấp lánh và tự đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống. Liệu số phận của tôi, với quyền uy tối thượng, có được sắp đặt từ trước bởi các thần linh? Tại sao những hoàng tử trong cung, mặc dù hàng ngày dâng cúng, không được trở thành Pharaoh, trong khi tôi, một người mang hai dòng máu, sống ở miền biên thùy hoang vu, không dâng cúng, lại được phước lành đó? Tại sao có người sinh ra ở những vùng đất giàu có bên bờ sông Nile như Ai Cập, trong khi người khác phải sống ở những nơi khác?
Có những vùng núi khô cằn như xứ Kush và sa mạc nóng bỏng như xứ Nubia. Sự khác biệt trong hoàn cảnh sinh sống và địa vị xã hội của con người cũng không thể tránh khỏi. Có người sinh ra trong gia đình giàu có sung sướng, trong khi người khác lại sinh vào nơi nghèo nàn, khốn khổ. Có kẻ được làm quan, trong khi người khác phải làm nô lệ. Các thần linh cũng có những quy định và yêu cầu của riêng mình. Họ yêu cầu phẩm vật dâng cúng nhưng lại để cho các giáo sĩ thụ hưởng. Con người sinh ra với mục đích gì khi mọi việc đều do thần linh thu xếp từ trước? Liệu con người chỉ là nô lệ của các thần linh? Tôi muốn đặt câu hỏi với các thần linh về việc này, nhưng không biết hỏi ai. Từng sống với các giáo sĩ khi còn nhỏ, tôi đã thấy rõ cách họ sống và hưởng thụ phẩm vật dâng cúng. Họ thường dùng các thần linh để đe dọa và đòi hỏi thêm lễ vật, sau đó chia nhau hưởng thụ. Tuy nhiên, họ chỉ giải thích bâng quơ và không thể trả lời rõ ràng những thắc mắc của tôi.
Tôi tôn kính đấng Thái Dương Amun Ra và trong các nghi lễ, tôi đã đặt câu hỏi cho ngài bằng các phẩm vật quý nhưng không nhận được câu trả lời. Sau đó, tôi đến đền thờ nữ thần Isis, khuôn mặt của bà được che bằng một tấm vải, không ai có thể nhìn thấy dung nhan của nữ thần. Các giáo sĩ đã dạy tôi rằng Isis tượng trưng cho những điều không thể diễn tả và hiểu được, vì vậy tốt nhất là chỉ dâng cúng và để cho chư thần quyết định mọi việc. Tuy nhiên, với ý chí mạnh mẽ và tư duy cứng đầu của mình, tôi không thể chấp nhận rằng mọi sự kiện đều do thần linh sắp đặt.
Một lần tôi đã đặt câu hỏi: “Làm sao tôi có thể biết được ý muốn của chư thần?” Nếu Pharaoh là người trung gian giữa thần linh và dân chúng, thì tôi cần phải hiểu rõ ý muốn của chư thần, đúng không? Tuy nhiên, các giáo sĩ không thể trả lời câu hỏi này, và họ giải thích rằng Pharaoh cũng là một vị thần và ý muốn của Pharaoh chính là ý muốn của chư thần. Lúc đó, tôi đã đặt câu hỏi ngược lại rằng nếu vậy, tại sao chỉ có các giáo sĩ được nhận những vật phẩm cúng dường mà không phải là Pharaoh hay bất kỳ ai khác? Các giáo sĩ không dám đối mặt với những câu hỏi khó khăn này, vì vậy họ thường tìm cách né tránh chúng.
Buổi gặp gỡ như thế. Nhưng ai có thể giúp tôi giải đáp hàng trăm câu hỏi thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống của tôi ở đây? Đang suy nghĩ miên man, bỗng tôi bị đánh thức bởi tiếng cười vui nhộn và âm nhạc phát ra từ cung vọng. Mấy tháng qua, tôi đã chán ngấy những hoạt động giải trí nhàm chán đó, cũng như sự lạnh lùng trước những cung nữ xinh đẹp được chọn vào cung. Ngay cả hoàng hậu Nedjem cũng không làm tôi hứng thú gì. Cuộc hôn nhân này thực ra chỉ là một sự sắp đặt quyền lực mà tôi chỉ thực hiện theo kế hoạch của giới giáo sĩ. Tôi nghe rõ tiếng cười của những cung nữ xen lẫn âm nhạc từ các nhạc công phía sau vọng, khiến tôi tức giận quát lớn: – Các ngươi hãy im lặng. Nếu tôi nghe thêm một tiếng động nào nữa, tôi sẽ trừng phạt tất cả.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, tiếng huyên náo dần dần trở nên im lặng và tôi cảm thấy mình cô đơn trong cung điện giữa đêm khuya yên tĩnh.
Tôi muốn tiếp tục suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống và những thắc mắc khác, nhưng không còn hứng thú. Bất ngờ, tôi nảy ra ý tưởng đi thăm tình hình dân chúng bên ngoài. Tôi gọi người hầu mang một chiếc áo choàng cũ để khoác lên người, sau đó tự mình đi ra ngoài thành. Tôi không muốn binh sĩ hộ vệ đi theo, nên ra lệnh để họ ở lại trong cung. Là người đã trải qua sinh tử, tôi không sợ gì cả. Với sức mạnh đã rèn luyện từ khi còn sống ở sa mạc, tôi có thể dễ dàng đánh bại những kẻ vô lại hay những người say rượu.
Tôi lang thang qua những khu chợ đông đúc vào buổi tối, nơi mà một số người vẫn đang giao dịch dưới ánh đèn lấp lánh. Tiếp tục đi qua những nơi mà các nhóm buôn hàng từ xa đến để trao đổi. Qua những quán ăn với âm nhạc nhẹ nhàng và các vũ nữ xinh đẹp đang biểu diễn, tôi tiếp tục bước đi mà không có mục tiêu cụ thể cho đến khi tôi nhìn thấy ánh đèn phát sáng trong một khu phố hoang tàn với những ngôi nhà đổ nát. Đột nhiên, tôi nhìn thấy một cô gái trẻ đang ôm một đứa bé, đi qua đi lại trước một căn nhà. Lúc đó, có một sức hút kỳ lạ thu hút tâm trí tôi, khiến tôi dừng lại – sau này tôi mới nhận ra rằng đó là vẻ đẹp tự nhiên và sự thuần khiết của cô gái. Nhưng tôi không hiểu vì sao.
Không tiến gần cô gái, tôi quay vào nhà. Nhìn vào dấu hiệu trước cửa, tôi biết đó là nhà của một y sĩ nên bước vào. Tôi thấy một ông lão đang bào chế thuốc với những chậu thuốc chứa đầy thảo dược. Tôi nhận ra ngay những vị thuốc quen thuộc dùng để chữa bệnh thời khí.
Tôi tò mò hỏi về người phụ nữ trẻ đang ôm đứa bé trước cửa, một hình ảnh mà tôi rất ấn tượng. Ông lão trả lời: – Đó là Cihone, mỗi khi tôi gặp phải một trường hợp khó khăn với những đứa trẻ mà không có cách nào chữa trị, tôi giao đứa bé cho Cihone và cô ấy luôn thành công.
Tôi bất ngờ hỏi: – Cô ấy đang làm gì với đứa bé vậy? Ông lão trả lời: – Cihone ôm bé vào lòng, sử dụng tình yêu thương để chữa lành cho bé.
Vì sao lại như vậy? Nếu không thể chữa bằng thuốc, liệu chúng ta có thể đưa đến các giáo sĩ để cầu nguyện không? Ông lão lắc đầu: – Chúng ta phải dâng cúng phẩm vật cho thần linh, sau đó các giáo sĩ mới có thể cầu nguyện cho chúng ta. Nhưng với dân nghèo như chúng tôi, không có đủ tiền để thực hiện các nghi thức đó.
Ông lão nói thêm: – Hầu hết các bệnh của trẻ em đều do thiếu sự quan tâm và tình yêu thương. Đa số cha mẹ của những đứa trẻ này đều bận rộn với công việc, ít ai có thời gian để chăm sóc cho chúng, đặc biệt là những đứa trẻ mới sinh. Mặc dù chỉ là những bệnh thông thường, nhưng nhiều đứa trẻ vẫn mất mạng, vì nguyên nhân chính là thiếu sự chăm sóc.
Tôi bất ngờ và hơi tức giận: – Ông là bác sĩ mà nói như vô lý vậy. Tình yêu là cái gì mà có thể chữa được bệnh tật? Ông lão nhìn tôi, sau đó nói một cách chậm rãi: – Tôi là bác sĩ đã được đào tạo về y học trong nhiều năm nhưng trường y không dạy về tình yêu. Các giáo sĩ cũng không.
Tôi đã nhận ra tầm quan trọng của tình thương khi tìm hiểu về các căn bệnh của trẻ con và nguyên nhân gây ra bệnh thần kinh ở người lớn. Tình yêu thương là điều không thể thiếu đối với con người.
Tôi cảm thấy rất không hài lòng với cách ông ấy giải thích: – Tại sao lại như vậy được? Trẻ em khỏe mạnh nhờ ăn uống đủ dinh dưỡng. Hiện nay, xã hội Ai Cập đang ổn định, mọi người đều được tận hưởng cuộc sống yên bình.
Ông lão vẫn điềm tĩnh đáp lời: – Cậu nói đúng, cuộc sống hiện nay đã tốt hơn trước. Dĩ nhiên đối với trẻ nhỏ, chúng cần thực phẩm để nuôi dưỡng cơ thể, nhưng thỏa mãn nhu cầu ăn uống vẫn không đủ vì còn có một nhu cầu quan trọng hơn, giúp chúng có sức mạnh và đề kháng chống lại bệnh tật, đó là tình thương. Đối với chúng, được thương yêu săn sóc là điều kiện tất yếu cho sự sống còn, trưởng thành. Thiếu tình thương, chúng rất dễ mắc bệnh và không thể chống chọi trước những căn bệnh hiểm nghèo. Nếu không được săn sóc chu đáo dù được cung cấp dinh dưỡng đầy đủ, chúng vẫn dễ mắc phải những căn bệnh khó trị. Khi lớn lên, nếu không được yêu thương, chúng dễ trở thành những kẻ hung ác, vô cảm và ích kỷ. Hiện nay, Pharaoh cho xây cất đền đài, lăng tẩm khắp nơi, nên phần lớn dân chúng đều bị xung công đi xây cất những công trình này, không mấy ai có thể săn sóc con cái cẩn thận vì người nào cũng bận lo công việc sinh kế. Do đó, hiện nay số trẻ con ốm đau bệnh tật đang gia tăng nhiều hơn những năm trước.
Tôi tức giận đến mức không thể kìm nén, nhưng không muốn tiết lộ bộ mặt thật của mình. Thông thường, chỉ cần một cử chỉ nhẹ nhàng như giơ ngón tay, tôi có thể đẩy ông già này vào hàm của sư tử ngay lập tức. Tôi quay lại nhìn người phụ nữ vẫn ôm con trẻ.
Ông lão không cố ý nói: – Cihone đảm nhận vai trò người mẹ chăm sóc cho đứa trẻ bị bệnh tật vì thiếu sự âu yếm, quan tâm. Người mẹ chính là tình thương và chắc chắn không có gì gây tổn thương trẻ con hơn việc thiếu đi tình thương của người mẹ.
Câu nói của ông lão khiến tôi nhớ về người mẹ đã khuất của mình. Mẹ tôi qua đời trong cung điện một cách bí ẩn khi tôi còn rất nhỏ. Tôi không biết nhiều về bà, chỉ biết rằng bà là một trong những phụ nữ bị bắt giữ trong khi Pharaoh đang chiến đấu ở biên giới.
Sau khi tôi ra đời, chắc chắn mẹ tôi đã phải đấu tranh để bảo vệ tôi trong một môi trường đầy tranh cãi, ghen tuông và âm mưu đen tối. Trong cung điện của Pharaoh, có nhiều cung phi mong muốn được yêu thương và con của họ trở thành người kế vị Pharaoh. Vì lòng ghen tức, các cung phi khác đã âm mưu hại mẹ tôi. Tôi không bao giờ quên điều này, và khi tôi trở thành Pharaoh, tôi đã ra lệnh để tất cả phi tần, cung nữ và quan thần trong cung bị ném vào hầm sư tử. Tôi nghe tiếng kêu la thảm thiết của những người này khi chúng bị lũ sư tử đói xé xác, và tôi cảm thấy thỏa mãn vì đã trả được mối hận năm xưa.
Tôi hỏi:. – Phải chăng Cihone đã là một người mẹ? Ông lão lắc đầu: – Không, Cihone trước là một bé gái vô thừa nhận, bị vứt ở góc chợ .
Chúng tôi quyết định đưa Cihone về nuôi vì chúng tôi cảm thấy có tội. Từ khi còn nhỏ, Cihone đã giúp chúng tôi chăm sóc bệnh nhân, nhưng tôi nhận ra rằng nó cũng có khả năng chăm sóc trẻ con. Khi được nó quan tâm, không có đứa trẻ nào phải chết.
Tôi bất ngờ: – Có lẽ Cihone không có mẹ nữa à? Ông lão cười: – Cihone không có cha mẹ sinh thật nhưng chúng tôi đã nuôi dưỡng từ nhỏ nên tôi coi Cihone như con ruột. Là một bác sĩ, tôi nhận thấy rõ rằng sự thiếu tình thương từ người mẹ không chỉ làm chậm sự phát triển của trẻ em mà còn gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe. Những đứa trẻ dễ mắc bệnh và phát triển chậm thường là do thiếu sự chăm sóc và yêu thương.
Ông lão dừng lại để tôi có thời gian suy nghĩ, sau đó tiếp tục: – Hãy suy nghĩ xem, nếu thiếu tình thương gây hại như vậy, thì những đứa trẻ không có cha mẹ sẽ phải đối mặt với những khó khăn gì? Họ sẽ trưởng thành một cách không bình thường. Họ sẽ phải đấu tranh và cố gắng một mình.
Đối mặt với tình huống không may, sống trong sự cô độc và phát triển những tính cách đặc biệt. Dù có cuộc sống giàu có khi trưởng thành, nhưng họ dễ mắc các vấn đề về tâm lý do những biến cố trong quá khứ. Nếu không may, trong hoàn cảnh nghèo khó, họ có thể trở thành những tội phạm trong xã hội.
Ông già tiếp tục phát biểu: – Cậu có biết vì sao điều đó xảy ra không? Bởi vì mỗi đứa trẻ đều hành động theo cách mà cha mẹ hoặc xã hội dạy cho chúng.
Tùy thuộc vào cách cha mẹ dạy dỗ và đối xử với đứa trẻ, cuộc sống của nó có thể trở nên đáng ghét hoặc đáng sống. Khi mới sinh ra, đứa trẻ đều có khả năng yêu thương vì nó được sinh ra từ tình yêu của cha mẹ. Nếu được sống trong môi trường yêu thương, nó sẽ biết cách thương yêu. Ngược lại, nếu không được yêu thương, khả năng thương yêu của nó sẽ mất đi và nó chỉ biết sống một cách vô thức. Làm sao nó có thể yêu ai nếu chưa từng được ai yêu? Làm sao nó có thể đồng cảm với nỗi đau của người khác khi khả năng yêu thương đồng cảm của nó đã bị mất? Do đó, mối quan hệ giữa nó và những người xung quanh sẽ trở nên hời hợt và bị giới hạn trong những điều nhỏ nhặt, không thể mở rộng tầm nhìn hay thể hiện sự bay bổng. Đầu óc của những đứa trẻ này sẽ chỉ tập trung vào những lợi ích nhỏ nhặt, thú vui vật chất hẹp hòi, thói tham lam và ích kỷ, không thể thực hiện những việc lớn. Là một y sĩ, tôi đã điều trị cho nhiều người và quan sát nhiều điều, và nhận thấy rằng hầu hết những kẻ tàn ác, tham lam và tàn nhẫn đều là những người thiếu tình thương.
Tôi cố gắng kiềm chế cơn tức giận khi nghe câu nói không cố ý của ông lão xúc phạm đến danh dự của tôi. Tôi lên tiếng bảo vệ: – Nhưng hiện tại, Ai Cập đã thay đổi, Pharaoh đã ổn định tình hình trong nước, cuộc sống của người dân đã được cải thiện và không còn ai lo sợ về nguy cơ xâm lược từ bên ngoài nữa.
Ông già mỉm cười.
Tất nhiên không ai còn lo sợ về việc người Nubia xâm lăng nhưng việc xây dựng đền thờ Thái Dương quá nhiều ở khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, đã làm cạn kiệt nguồn lực của quốc gia. Gia đình nào cũng bận rộn tham gia vào những công trình xây dựng vĩ đại này để làm hài lòng Pharaoh, nhưng thực tế chỉ là sự rực rỡ và lộng lẫy bên ngoài, không ai thấy được sự suy kiệt tiềm tàng của ngân khố bên trong. Những công trình này chỉ có lợi cho nhóm giáo sĩ và quyền lực của họ, không mang lại lợi ích gì cho người dân.
Tôi tức giận đến mức run lên bởi câu nói thô lỗ xúc phạm đến tôi. Tuy nhiên, ông lão không hề hay biết và tiếp tục nói: “Hãy suy nghĩ xem, tương lai Ai Cập sẽ ra sao khi mọi gia đình đều bận rộn xây dựng lăng tẩm, để rồi những đứa trẻ này lớn lên thiếu sự chăm sóc, giáo dục và tình yêu thương? Tương lai của chúng sẽ trở nên như thế nào khi chúng lớn lên với những thói quen xấu xa, chỉ biết tham lam, ganh đua và chiếm đoạt? Nếu chúng không được giáo dục từ nhỏ, làm sao những đứa trẻ này có thể biết được những gì mà thế hệ trước đã cống hiến để xây dựng?” Nghe ông lão nói, mặc dù tôi cảm thấy tức giận, nhưng tôi cũng bất ngờ nhận ra điều mà trước đây tôi chưa từng suy nghĩ đến.
Hiện nay, hầu hết các gia đình đều phải xây dựng đền đài cho giáo sĩ và Pharaoh. Ít ai có thể chăm sóc con cái ngoài việc đảm bảo chúng được ăn uống. Trẻ con lớn lên không được dạy dỗ kỹ càng, dễ bị ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu. Trẻ nhỏ không được chăm sóc, âu yếm nên mắc phải nhiều bệnh. Bệnh tật có thể chữa khỏi, nhưng tính cách và thái độ của chúng đối với cuộc sống trở nên tiêu cực, xấu xa thì làm sao có thể thay đổi được? Tôi cố nén giận và hỏi thêm: – Vậy ông thường xử lý như thế nào với những đứa trẻ này? Ông lão trả lời: – Đối với những đứa trẻ mắc bệnh được gửi đến đây để tôi chăm sóc, ngoài việc điều trị, tôi còn dạy chúng biết yêu thương. Ngay cả những đứa trẻ hung hăng được gửi đến đây, chúng tôi không trừng phạt mà chỉ đối xử dịu dàng để khơi gợi lại tiềm năng yêu thương đã bị che lấp của chúng.
Ông lão thở dài: – Thực ra, với người lớn cũng vậy. Thay vì trừng trị bằng cách đẩy vào hầm sư tử hoặc đày đi vùng biên giới để xây lăng mộ cho các quan triều, Pharaoh nên cho họ cơ hội để thay đổi, để họ học cách yêu thương, vì tình yêu là một sức mạnh sáng tạo có thể biến đổi, chữa lành mọi bệnh tật, thay đổi mọi thứ. Với tình yêu, người trao yêu thương và người được yêu thương đều trở nên hạnh phúc. Tình yêu là một điều mà ai cũng có thể cho đi mà không sợ lãng phí. Khi xã hội được xây dựng trên nền tảng của tình yêu, nó sẽ có khả năng xây dựng, gắn kết mạnh mẽ, có thể vượt qua mọi khó khăn. Một xã hội được xây dựng trên sự oán hận và thù địch thì khó mà tồn tại, vì nó sẽ phá hủy tất cả. Tuy nhiên, hiện tại có bao nhiêu người biết yêu thương và tha thứ như vậy? Lời cuối cùng của ông lão làm tôi tức giận vì nó chỉ trích hành động tàn ác của tôi khi trở thành Pharaoh. Nếu vào lúc khác, tôi đã xử tử ngay kẻ thô lỗ này. Nhưng lúc đó, tôi đã nhận ra tình hình và kiềm chế cơn giận. Tôi quay đầu nhìn người con gái đang ôm đứa bé đứng xa kia. Cô ấy có một cái gì đó đặc biệt mà tôi không thể giải thích, khiến tôi phải chú ý đến cô. Dù cô không quá xinh đẹp, nhưng với vẻ ngoài thôn nữ thanh mảnh trong bộ quần áo giản dị, dưới ánh sáng của ngọn đèn nhỏ, cô vẫn tỏa ra vẻ thánh thiện của một người mẹ hiền và quyến rũ của một cô gái trẻ. Cô không để ý tôi, chỉ ôm đứa bé trong vòng tay một cách âu yếm.
Lúc đó, tôi nhớ lại một cảm giác xa xưa, khi còn nhỏ, tôi được mẹ âu yếm như vậy. Tôi vẫn nhớ cảm giác được nằm trong lòng mẹ và bà cũng nâng niu tôi như vậy. Bỗng dưng, tôi cảm thấy sung sướng một cách lạ lùng về cái gọi là tình thương mà ông lão vừa nói. Tôi nghĩ về thân phận của mình, mất mẹ từ nhỏ, bị đối xử khắt khe, tàn nhẫn, nhưng nhờ ý chí cương quyết, tôi đã vượt qua mọi khó khăn, trở thành một Pharaoh uy quyền tột đỉnh, nhưng tôi chưa biết gì về tình thương cho đến lúc này.
Tôi chưa bao giờ có tình cảm với ai hay yêu ai, và cũng chưa từng được ai yêu.
Thương. Mọi cung nữ xinh đẹp đều chỉ biết làm tôi vui lòng vì đó là nhiệm vụ của họ, không có tình yêu. Hoàng hậu Nedjem cũng chỉ đóng vai trò nhạt nhòa trong cuộc hôn nhân được sắp đặt này. Thực tế, tôi chưa từng yêu ai và chưa từng được ai yêu.
Không thể phủ nhận rằng điều đó là sự thật. Tôi nhìn lại người con gái đó và thấy cô ấy có một sự dịu dàng giống như mẹ tôi ngày xưa. Bất ngờ, tôi không thể nhịn được nụ cười khi nhìn vào cô ấy, trong khi cô ấy vẫn đang âu yếm đứa bé mà không để ý đến người lạ đang nhìn cô ấy một cách tò mò.
Tôi rời khỏi ngôi nhà của bác sĩ già và không trở về cung điện ngay lập tức, mà đi thẳng đến đền Thái Dương. Satt bất ngờ khi thấy tôi đến vào thời điểm này.
Tôi bắt đầu cuộc trò chuyện: “Satt, ông nghĩ sao về tình hình hiện tại của Ai Cập?” Satt nhìn tôi với sự ngạc nhiên và lo lắng trước trang phục lạ lùng của tôi: “Tại sao Pharaoh lại hỏi như vậy? Ngài biết mọi việc rõ hơn chúng tôi mà.”
Tôi nói một cách rõ ràng: – Nhưng ta muốn ông trả lời một cách rõ ràng.
Satt quan sát tôi một cách cẩn thận rồi sau đó trả lời: – Từ khi lên ngôi Pharaoh, ngài đã thực hiện nhiều công việc quan trọng. Ngài đã cải tạo xã hội, đàn áp phản loạn, trừng trị những người không tuân thủ luật pháp và mang lại sự thịnh vượng cho dân chúng trong vương quốc này. Hơn nữa, ngài đã xây dựng nhiều đền thờ ở khắp mọi nơi. Công lao của ngài không ai có thể sánh kịp.
Tôi hét lên: – Điều đó không phải là cái mà chúng ta đang quan tâm! Satt trông rất lúng túng, nhìn tôi một cách tập trung: – Có phải ông muốn hỏi về việc xây dựng một ngôi mộ cho mình sao? Triều đình đã xây dựng một ngôi mộ vĩ đại để sau khi qua đời, ông có một cuộc sống tốt đẹp trong kiếp sau. Các nghi lễ mai táng đã được chuẩn bị kỹ lưỡng.
Tôi không thể kiềm chế nữa và la lớn: – Tôi hiểu điều này, đó không phải là điều tôi muốn hỏi.
Satt không hài lòng: – Liệu các cung nữ có thể không làm ngài hài lòng? Triều đình đã tuyển dụng nhiều cung nữ xinh đẹp từ khắp vương quốc. Nếu ngài muốn, chúng tôi có thể tuyển thêm cung nữ từ các vùng khác để phục vụ ngài.
Tôi cảm thấy rất tức giận: – Không, không! Tôi không muốn có nhiều cung nữ, họ chỉ là những người gây hại.
Satt run hoảng sợ: – Có lẽ ngài muốn thay đổi hoàng hậu. Nếu Nedjem không đáp ứng được mong đợi của ngài, triều đình có thể tìm một hoàng hậu khác để thay thế.
Không thể chịu đựng nổi nữa, tôi la lớn: – Không! Hãy cho tôi biết! Bạn đã thu được bao nhiêu tài sản từ các nghi thức tôn giáo? Triều đình đã trao cho bạn rất nhiều vàng bạc, châu báu để xây dựng đền thờ, vậy tại sao bạn lại tiếp tục thu thêm nhiều tiền bạc từ dân chúng như vậy? Satt giật mình run lẩy bẩy, câu hỏi bất ngờ của tôi đã khiến anh ta hoảng sợ thực sự. Tôi tiếp tục: – Tôi muốn xem xét lại việc xây dựng các đền thờ. Hãy gọi ngay đám quan để kiểm tra công việc này trong cung.
Satt tỏ ra bình tĩnh và tập trung nhìn tôi, rõ ràng hắn đang suy nghĩ về một điều gì đó. Nếu mọi chuyện không thuận lợi cho đám giáo sĩ, có thể hắn sẽ thay đổi quan điểm. Đột nhiên, Satt cúi đầu và nói: “Xin tuân lệnh của Pharaoh, tôi sẽ điều tra tất cả theo ý ngài.”
Tôi ra khỏi đền thờ thần Thái Dương, nhưng nhận ra rằng Satt vẫn đang quan sát tôi từ phía sau. Tôi biết rằng đầu óc mưu mô lanh lợi của hắn đang nảy sinh nhiều nghi vấn về thái độ của tôi hôm nay. Tuy nhiên, tôi đã sẵn sàng lập ngay một kế hoạch đối phó nếu những giáo sĩ này quay sang phản bội. Khi tôi vào cung, tôi gọi ngay một thám tử riêng và ra lệnh: “Hãy điều tra xem các giáo sĩ đã thu thập tiền bạc như thế nào và công trình xây dựng đã tốn kém bao nhiêu? Tôi muốn xem xét kỹ lưỡng mọi chi tiêu từ ngân quỹ”.
Sau vài ngày, nhóm thám tử này đã trình cho tôi một bản báo cáo đầy đủ. Tôi bị sốc khi biết rằng ngân quỹ triều đình đã phải chi một số tiền lớn để xây dựng một lăng tẩm cho tôi và hoàng hậu Nedjem. Nhưng việc xây dựng các đền thờ cho giáo sĩ lại tốn kém hơn nhiều. Trong một thời gian ngắn, hàng trăm đền thờ lớn và tráng lệ đã được xây dựng và tu bổ dọc theo bờ sông Nile, nơi hàng ngàn giáo sĩ và gia đình của họ sống một cuộc sống xa hoa, với hàng chục ngàn nô lệ phục vụ. Điều đáng ngạc nhiên là ngân quỹ triều đình đã tiêu hết hầu hết vàng bạc, châu báu và ngọc ngà tích trữ từ trước đến nay. Bây giờ tôi hiểu tại sao một số quan lại trong triều đòi tăng thuế gấp đôi và các tướng lĩnh muốn mở rộng lãnh thổ, xâm lăng các quốc gia láng giềng.
Ngay lập tức, tôi gọi Satt đến và đưa cho anh ta một tờ giấy ghi rõ các con số thu chi. Satt nhìn kỹ và trầm ngâm một lúc, sau đó nói: – Tôi sẽ xem xét lại những thông tin này, có thể đã có sự nhầm lẫn nào đó.
Tôi lao lên: – Chúng tôi đã xem xét rất cẩn thận, không thể có sự nhầm lẫn nào. Hãy giải thích cho tôi về việc xây dựng quá lớn như vậy. Kẻ nào làm sai sẽ bị đưa vào hầm sư tử ngay lập tức.
Satt rung rinh từ đầu đến chân, lắp bắp không thể nói ra: – Xin Pharaoh cho tôi một vài ngày nữa để tiến hành điều tra tất cả.
Tôi hét lên: – Hãy tiết lộ cho tôi sự thật, vì tôi cần phải hiểu rõ mọi thứ trước khi đưa ra các biện pháp mới.
Sau khi Satt rời đi, tôi ngay lập tức liên hệ với một thám tử đáng tin cậy: – Hãy theo dõi Satt một cách cẩn thận, nếu hắn có bất kỳ âm mưu nào, hãy thông báo cho tôi ngay lập tức. Tôi không muốn để bị lợi dụng.
Một chiều hôm đó, khi mặt trời đã chìm nhưng vẫn còn chút ánh sáng lấp lánh trên mặt nước sông Nile. Tôi đứng trong khu vườn cao cấp, nhìn ra dòng sông và bỗng cảm thấy một cảm giác cô đơn không thể diễn tả. Nếu có ai đó hỏi tôi điều gì khiến người ta sợ hãi nhất, tôi chắc chắn sẽ trả lời rằng đó chính là sự cô đơn. Tất nhiên, không ai có thể hiểu được tại sao một vị Pharaoh lại cảm thấy như vậy.
Cung vàng điện ngọc, xung quanh tràn đầy những cung nữ xinh đẹp nhưng lại mang trong mình cảm giác cô đơn. Không ai có thể hiểu được cảm giác cô đơn đến thế nào khi chưa từng trải qua đỉnh cao của danh vọng. Những người như tôi không có ai để chia sẻ, không có ai để tâm sự. Ở vị trí cao nhất này, mọi người đều sống trong sợ hãi. Bất kỳ Pharaoh nào cũng sợ bị phản bội.
Không có pharaoh nào không sợ phải chia sẻ tâm tư với người khác. Tất cả pharaoh đều sợ, vì họ mang những bí mật không thể nói ra. Dù thành công, danh tiếng và giàu có đến đâu, họ vẫn sống trong sự lo lắng và sợ hãi, vì đó là những vị trí quyền lực nhưng cũng cô đơn nhất. Không ai có thể trốn khỏi cô đơn bằng những bữa tiệc tùng thâu đêm suốt sáng. Không ai có thể trốn khỏi cô đơn bằng những cung nữ xinh đẹp. Không ai có thể trốn khỏi cô đơn bằng công việc triều chính bận rộn. Không ai có thể trốn khỏi cô đơn bằng những trò vui, vì ngay cả giữa đám đông ồn ào và náo nhiệt, cô đơn vẫn theo đuổi họ mãi mãi.
Tôi ngẩng đầu nhìn bầy chim bay ở phía cuối bầu trời, rồi bất giác, tôi nhanh chóng khoác lên mình chiếc áo choàng cũ và kéo chiếc khăn che mặt. Không một ai biết, tôi bước ra khỏi cung điện một mình, theo con đường tôi đã đi qua cách đây không lâu. Tôi đến thăm ngôi nhà của người y sĩ, nơi tôi có thể thoải mái trò chuyện mà không cần lo sợ. Ông ta không hề biết tôi là ai, nhưng ông dám nói những điều mà không ai khác tại Ai Cập dám thốt ra trước mặt một vị Pharaoh như tôi.
Tôi cũng muốn gặp lại cô gái mang nét tốt bụng, nhẹ nhàng rất giống mẹ tôi ngày xưa.
Khi bước vào, tôi thấy một người y sĩ già đang chăm chỉ bào chế các loại thuốc từ rễ cây, nhưng không thấy Cihone đâu. Tôi chào hỏi: – Chắc ông vẫn nhớ, cách đây vài ngày tôi đã đến đây và chúng ta đã có cuộc trò chuyện thú vị với nhau.
Ông lão nhìn tôi với ánh mắt ngập tràn sự ngạc nhiên, với vầng trán nhăn lại. Không chỉ để nhớ, mà còn để thể hiện sự bất ngờ trước sự trở lại của tôi. Ông nhớ rồi, ngày đó tôi đã hỏi ông về Cihone và chúng ta đã trò chuyện lâu hơn một chút.
Tôi rất hạnh phúc.
Đúng vậy, ông nói rằng Cihone có thể điều trị bệnh cho trẻ em bằng lòng yêu thương.
Ông già nhìn chằm chằm vào gương mặt tôi, sau đó dừng lại một chút và cảnh báo: – Hôm đó tôi đã nói rất nhiều điều vô lý, mong rằng bạn đừng quan tâm đến những điều đó nữa.
Tôi bật cười gạt đi: – Không sao, tôi rất thích câu chuyện ông nói nên muốn nghe ông nói tiếp .
Người già nhìn tôi, do dự muốn nói nhưng lại im lặng nên tôi quyết định khởi đầu cuộc trò chuyện: – Ông là bác sĩ, tại sao ông không làm việc tại một khu chợ đông đúc mà lại chọn một nơi hoang vắng như thế này? Ông lão trả lời: – Cậu là ai mà lại muốn biết điều này? Để làm việc ở những nơi đó, tôi phải đóng thuế. Hầu hết bệnh nhân của tôi đều nghèo, không ai có đủ tiền để trả, vì vậy tôi không thể đóng thuế cho Pharaoh.
Mặc dù tức giận vì lời nói xúc phạm, tôi đã kiềm chế và không trả lời câu hỏi đầu của ông. Thay vào đó, tôi tiếp tục hỏi: “Ông nghĩ rằng tiền thuế quá cao hay sao?” Ông lão chỉ gật đầu đồng ý và nói: “Ngày càng thuế càng cao, nên những người như tôi phải chuyển đến những nơi hẻo lánh như thế này. Đa số người dân ở đây làm việc trong công trường xây dựng lăng tẩm cho Pharaoh và đền thờ cho các giáo sĩ. Tiền lương đã ít mà còn bị bóc lột và bị đánh đập liên tục.”
Ông già chỉ vào nồi thuốc đang sôi trên bếp lửa: – Hôm nay mọi người phải ra sông Nile để di chuyển bức tượng Pharaoh vào nghĩa địa của ngài. Đó là một bức tượng to lớn được chạm từ một hang đá rất xa. Công việc vận chuyển từ đó về đây đã gây ra nhiều người chết và không ít người bị thương nên hôm nay tôi phải pha chế thuốc băng bó để chữa trị cho họ.
Tôi đứng yên lặng, không lời nào được phát biểu. Tất nhiên, tôi đã quen với pho tượng này, đây là một công trình tuyệt vời, vì nó sẽ đứng vững trước lăng tẩm của tôi. Nó biểu trưng cho tôi, một vị Pharaoh đã mang lại sự thịnh vượng cho Ai Cập thông qua những thành tựu vĩ đại. Chính tôi đã ra lệnh để tạo ra pho tượng này, với hy vọng nó sẽ tồn tại mãi mãi. Tôi biết rằng nhiều thế hệ tương lai sẽ biết đến công lao của tôi và tên tuổi của tôi sẽ được ghi vào lịch sử, trên những bức tranh và tượng điêu khắc tại các đền thờ trên khắp Ai Cập. Ngoài ra, tôi đã chuẩn bị trước cho cái chết của mình, và đã xây dựng một ngôi mộ vĩ đại nhất, cùng với nhiều kho báu vàng bạc, để tôi có thể tiếp tục một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia.
Tôi sẽ được phán xét công lao của mình bởi thần Osiris. Theo các giáo sĩ, nhờ việc dâng cúng nhiều phẩm vật, tôi sẽ được sống một cuộc sống tốt đẹp và vĩnh hằng trong cõi giới của các thần linh.
Ông y sĩ già tiếp tục phát biểu: – Tóm lại, chỉ có Pharaoh và các quan lớn trong triều mới được thưởng thức mọi điều tốt đẹp sau khi qua đời, còn những người dân nghèo như chúng tôi chỉ biết chăm chỉ làm việc để phục vụ, không hy vọng có một cuộc sống tốt hơn ngay trong đời này.
Lời của ông lão khiến tôi cảm thấy buồn bã và không thoải mái, tự ái vì suốt thời gian qua tôi luôn tự cho mình làm tốt cho mọi người và chưa từng ai dám nói những điều không hay như vậy. Sự độc đoán của một vị Pharaoh đang dần trỗi dậy…
Lúc đó, tiếng bước chân vang lên từ bên ngoài và Cihone, cô gái đó, bước vào. Tôi nhìn lên và bất ngờ trước gương mặt dịu dàng, phúc hậu cùng đôi mắt sáng, thiện cảm của người con gái mà tôi đã để ý từ đêm hôm trước mà chưa kịp nhìn rõ. Tôi như quên hết cảm giác tự ái trong vài giây và bị cuốn hút bởi đôi mắt ấy. Tôi nhanh chóng mỉm cười thân thiện với cô – nhưng ngay sau đó, tôi lại trở nên lạnh lùng và nụ cười tan biến khi thấy một chàng trai vạm vỡ theo sau cô gái bước vào. Sự xuất hiện của anh chàng này dường như làm tôi không còn vui vẻ và tự nhiên như trước đây. Cả hai cũng ngạc nhiên khi thấy tôi, một người lạ, đang ở trong nhà.
Ông già giới thiệu: – Đây là người tối hôm trước đã đến thăm nhà tôi.
Cihone nở nụ cười và nói nhẹ nhàng: – Đúng vậy, cha đã kể rằng có một người xa lạ đến hỏi thăm về con.
Anh ấy là người đó à? Bất ngờ tôi cảm thấy lúng túng không biết phải hành xử như thế nào vì sự xuất hiện của chàng trai đó. Vì vậy, tôi nói ngắn gọn: – Tôi nghe cha cô nói rằng cô có thể chữa bệnh mà không cần sử dụng thuốc hoặc các nghi lễ cầu nguyện gì cả.
Cihone lắc đầu sau khi nghe, tiếng nói êm đềm: – Tôi không biết cách chữa bệnh. Tôi chỉ biết ôm và yêu thương những đứa trẻ mà cha tôi nhờ tôi chăm sóc thôi.
Tôi quan tâm ngay: – Nhưng chắc chắn cô cũng mong muốn Thái Dương ban phúc lành cho những đứa bé đó phải không? Cihone trả lời ngạc nhiên: – Tôi chưa bao giờ biết đến việc cầu nguyện.
Người trẻ tuổi xuất hiện vào lúc đó mới chen vào: – Cầu nguyện là nhiệm vụ của các giáo sĩ. Với chúng tôi, những người dân bình thường, không có thời gian để làm công việc đó.
Tôi bất ngờ: – Vậy anh làm gì mà không có thời gian? Người trẻ trả lời: – Tôi làm việc cả ngày tại công trường xây dựng mộ pharaoh. Khi về nhà, tôi mệt lử, quá mệt mỏi.
Cihone nói thêm: – Xây dựng lăng tẩm là công việc vất vả, phải làm từ sáng sớm đến tối tối. Buổi tối còn phải làm thêm cho công trình xây mộ của các quan lớn nữa.
Ông lão y sĩ nhắc nhở: – Hai người đang muốn kiếm một ít tiền để tiết kiệm trước khi kết hôn. Cần có tiền để trả nợ và mua quà để tặng các giáo sĩ trước khi tổ chức lễ cưới.
Lời nói bất ngờ của ông lão khiến tôi cảm thấy đau đớn trong lòng như bị một cái giáo đâm vào. Người trẻ không quan tâm đến cảm xúc của tôi và tò mò hỏi: “Anh đến từ đâu? Tôi chưa thấy anh ở khu này bao giờ.” Tôi không thể tránh khỏi việc nói dối và trả lời: “Tôi đến từ một đoàn thương buôn mới ghé qua đây.”
Người trẻ ngạc nhiên: – Thường thì các đoàn thương buôn hoạt động ở ngoại ô chợ, không ai đến khu xóm nghèo như này. Chúng tôi không có gì để buôn bán hoặc trao đổi cả.
Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng cảm thấy không thoải mái với thái độ của chàng trai trẻ này: – Đêm qua tôi đi lạc, tình cờ ghé qua đây và có cơ hội trò chuyện lâu với ông lão y sĩ.
Cihone quay đầu nhìn cha, bỗng thấy ánh mắt tràn đầy lo lắng: – Cha tôi thường nói những điều không suy nghĩ, tôi đã cảnh báo ông nhiều lần rồi, không nên nói quá nhiều vì có thể gây rắc rối.
Ông già chậm chạp ôn hòa: – Ta nói có gì sai đâu mà phải cẩn trọng chứ.
Cẩn thận nhưng cha nên giảm đi một chút lời, vì nếu nói quá nhiều có thể gây hiểu lầm và nguy hiểm. Không phải ai cũng muốn biết sự thật như chúng ta ở vương quốc này. Đặc biệt là…
Ông lão lập tức phát biểu mạnh mẽ: – Ta không sợ gì cả! Nếu nói sự thật, không có lý do gì để sợ. Nếu sợ, thì không nên nói – Nếu đã nói, thì không cần sợ.
Ông Cihone nắm lấy tay ông một cách nghiêm túc: – Những người như chúng ta, dân thường bị coi thường, không thể làm thay đổi được gì cả. Nên nói nhiều cũng chẳng có ích gì cả, cha ạ.
Tôi bất ngờ hỏi: – Cô đang muốn ám chỉ việc thay đổi những gì?
Người trẻ trả lời: – Cha tôi thường nói về việc xây dựng các lăng tẩm, đền thờ to lớn, mà tôi thấy không có ích lợi gì cho dân cả. Nhưng các giáo sĩ và Pharaoh đã muốn làm thì không ai dám ngăn cản. Chắc chắn Pharaoh không quan tâm đến người dân mới làm như vậy suốt nhiều năm.
Tôi bị sốc khi nghe chỉ trích việc xây dựng lăng tẩm và đền thờ, vì nó là việc cấm kỵ và xâm phạm đến quyền lực của Pharaoh. Trong lịch sử Ai Cập, hầu hết các Pharaoh đều xây dựng những công trình vĩ đại như kim tự tháp, lăng tẩm và đền thờ các vị thần, vì đó là những di sản để lại cho thế hệ sau biết về công lao và danh tiếng của họ.
Ông lão phát biểu: – Chẳng ai sợ Pharaoh cả, chỉ có mình chúng ta không sợ. Pharaoh nào cũng vậy, chỉ quan tâm đến lợi ích của mình, chỉ lo xây dựng những ngôi mộ lớn, tốn kém để đảm bảo cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia, không hề nghĩ đến nỗi khổ của người dân phải làm việc vất vả. Pharaoh hiện tại còn tồi tệ hơn, không chỉ xây dựng những ngôi mộ vĩ đại cho chính mình mà còn ép buộc phải xây nhiều đền thờ Thái Dương cho giáo sĩ và tín đồ của họ được hưởng thụ.
Cihone nhanh chóng đặt tay lên miệng ông lão và nói: – Cha hãy cẩn thận! Xin đừng nói nữa cha ơi…
Ông già nói thẳng, chậm rãi: – Đừng sợ, người ta phải dũng cảm nói lên sự thật. Con có ý định để cha chết mới nói à? Chàng trai cảm động sau lời ông già: – Được rồi, cha muốn nói thì nói đi. Con ủng hộ cha nói lên sự thật dũng cảm! Chờ đến bao giờ nữa? Cha đã già rồi, không cần sợ hãi như trước! Cihone nhìn chàng trai, sau đó quay lại nhìn cha, nhẹ nhàng: – Bây giờ cha không nên nói gì thêm. Hôm nay có người lạ ở đây.
Câu nói của Cihone khiến mọi người bất ngờ quay trở lại hiện thực, im lặng nhìn tôi với ánh mắt tìm hiểu.
Hai từ “can đảm” mang một sức mạnh đặc biệt, khiến tôi nhớ về một kỷ niệm trong thời thơ ấu. Khi tôi và mẹ sống trong cung điện, tôi thường thích leo lên một bức tường thấp và nhảy xuống lòng mẹ để bà ôm lấy tôi. Một ngày đó, mẹ tôi nói: “Con hãy thử nhảy xuống một mình đi, con đã lớn rồi”. Tôi lo lắng: “Bức tường cao quá mẹ ơi”. Mẹ tôi chỉ cười và nói: “Này Akhon, hãy nhìn xem, bức tường này chỉ cao hơn con một chút thôi, con có thể nhảy xuống nhưng hãy nhảy bằng cả hai chân – đừng nhảy bằng cặp mắt”. Ý mẹ muốn truyền đạt là khi chỉ nhìn bằng mắt, chúng ta dễ bị sợ hãi và không dám hành động. Mẹ tôi còn nói thêm: “Con đã lớn rồi, phải tự tin và vượt qua mọi khó khăn”.
Con phải dũng cảm lên! Đừng có quá sợ hãi khi cần dũng cảm.
Trong tâm hồn tôi, một cảm xúc tự nhiên bùng phát. Tôi quan sát mọi người và bình tĩnh nói: – Đừng lo, tôi đã hiểu và sẽ giữ bí mật không tiết lộ cho bất kỳ ai. Thật đúng, ông nói đúng.
Tuy nhiên, mọi người vẫn nhìn tôi với sự lo lắng, không ai nói thêm gì. Một không khí u ám bao trùm căn nhà, khiến tôi hiểu rằng cuộc gặp sắp kết thúc, dù tôi muốn tiếp tục trò chuyện với Cihone, tôi phải từ biệt và quay về.
Tôi quay trở lại cung điện với tâm trạng khó chịu và bực bội. Không hiểu tại sao, những lời nói vô tình nhưng chân thành từ những người dân này lại có một sức mạnh tác động trực tiếp vào tâm trí kiêu căng và tự mãn của tôi, làm rung động trái tim tôi.
Tôi nhớ về giọng nói và cách ứng xử dịu dàng của người con gái thuần hậu kia, và trong lòng tôi cảm thấy cay đắng. Tại sao một vị Pharaoh oai hùng và quyền uy lại cảm thấy hụt hẫng và xấu hổ trước một người con gái bình thường như vậy? Làm sao một Pharaoh sống giữa đám cung nữ xinh đẹp lại cảm thấy chạnh lòng khi chứng kiến tình yêu và đồng điệu giữa người con gái trẻ chân quê và một gã trai làng? Có phải sự thu xếp của thần linh đã khiến người con gái đó thuộc về người khác? Tôi có thể vung tay ra để đạt được điều tôi muốn, nhưng tôi biết rằng tôi không thể làm như vậy với người con gái này. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bất lực đến thế. Ai đã đặt tôi vào hoàn cảnh trớ trêu như vậy? Ai?
Liệu có thể đáp ứng những câu hỏi đang ám ảnh tôi? Nếu mọi sự đều do ý muốn của thần linh, thì tại sao họ lại gây ra sự ác? Từ khi trở thành Pharaoh, tôi đã dâng hiến nhiều vật phẩm cho thần linh, vậy tại sao họ lại đặt tôi vào hoàn cảnh đau khổ này? Có phải đây là một thử thách về lòng tin của tôi đối với các vị thần, hay có điều gì khác nữa? Những câu hỏi này đã chiếm lĩnh tâm trí tôi suốt đêm đó, như một mũi tên sắc bén đâm thẳng vào trái tim, gây đau đớn và khó chịu chưa từng có.
Buổi sáng hôm sau, tôi cảm thấy rất khó chịu và bực bội, vì vậy tôi ra lệnh cho người hầu thắng ngựa để tôi có thể ra khỏi cung. Tôi không muốn quân lính đi theo, nên tôi ra lệnh cho họ quay trở lại. Sau đó, tôi cùng một con ngựa duy nhất tiến thẳng ra sa mạc. Mặt trời bắt đầu lên cao, ánh nắng lan tỏa trên những cồn cát trải dài trong sa mạc, tạo nên một sức sống kỳ diệu bao trùm lên mọi vật.
Tôi tự đặt câu hỏi: “Hiện tại thần Thái Dương Amun Ra đang ở đâu?” .
Từ lâu, tôi luôn gọi tên Ngài trong các nghi lễ tổ chức trong đền thờ khi dâng cúng, nhưng không cảm nhận được sự hiện diện của Ngài. Hiện tại, tôi đang đứng một mình giữa sa mạc rộng lớn, không có giáo sĩ hay nghi thức, chỉ có cát trắng vô tận. Tuy vậy, tôi lại cảm thấy mình nghĩ về Ngài một cách sâu sắc hơn bao giờ hết. Tôi mong muốn được nhìn thấy Ngài, được trò chuyện với Ngài một cách thân mật để tìm câu trả lời cho những thắc mắc của tôi. Nhưng đáng tiếc, từ trước đến nay, Ngài chỉ là một tượng đá trong đền thờ Thái Dương.
Tôi dừng lại, im lặng ngắm nhìn những vệt sáng dài chạy cuối chân trời và bất ngờ cảm nhận được một cái gì đó êm ái, nhẹ nhàng như bàn tay của mặt trời dang rộng ra để đón nhận tôi. Như có một lực lượng thúc đẩy, tôi quỳ xuống và dâng lên một lời cầu nguyện chân thành, lời cầu nguyện của một tín đồ trung thành chứ không phải của một vị vua oai phong. Bất ngờ, tôi bị cuốn vào một biển ánh sáng vô tận. Tôi cảm nhận được sự biến đổi kỳ lạ đang diễn ra trong tâm hồn tôi.
Có vẻ như mặt trời đang đùa giỡn với tôi, trêu chọc tôi phải không? Tôi đã mong muốn gặp Ngài từ lâu nhưng luôn bị tránh xa. Tuy nhiên, có lẽ Ngài đã nghe thấy lời cầu nguyện của tôi và dừng lại như đang chờ đợi. Tôi sẽ tập trung hết can đảm để…
Tôi ôm lấy Ngài, nhưng một lần nữa tôi cảm thấy mình không cầm được bàn tay Ngài và không nhìn thấy khuôn mặt Ngài.
Tôi đứng yên trong sự thất vọng và bất ngờ thốt lên một tiếng lớn, kéo dài: – Ôi Thần Mặt Trời! Ngài đang ở đâu? Tiếng hét của tôi lạc vào không gian rộng lớn của sa mạc và dần dần tắt đi, chỉ còn lại những cồn cát trơ trọi đứng im như một thách thức.
Trong khi đó, đột nhiên tôi nghe thấy một giọng nói vô hình ở ngay bên tai: “Tôi đây!”
Tâm hồn của tôi bỗng dưng mở rộng, nỗi thất vọng tự tan biến và tôi nhận thấy một cảnh tượng kỳ lạ đang hiện ra. Một cảnh tượng tuyệt đẹp và sáng chói hiện ra trước mắt tôi và tự nhiên tôi nhận ra rằng tôi không thể tìm thấy Ngài ở bên ngoài mà phải tìm trong tâm hồn. Khi tôi nghĩ như vậy, như có một bàn tay vô hình gỡ bỏ tấm vải che mắt tôi từ lâu. Suốt thời gian dài, tôi đã tìm kiếm Đấng Thái Dương qua các nghi lễ trong đền thờ. Tôi đã tìm kiếm Ngài qua những nghi thức dâng cúng, nhưng Ngài luôn tránh tôi. Bây giờ, giữa sa mạc bao la này, Ngài xuất hiện bên cạnh tôi và thì thầm vào tai tôi: “Tại sao trước đây bạn lại mải miết tìm kiếm Ta ở bên ngoài? Hãy quay về nội tâm, bạn sẽ gặp Ta!” .
Trong khoảnh khắc đặc biệt đó, tôi bị mê hoặc và nhận ra rằng tôi đã lạc lối trong việc tìm kiếm ở bên ngoài. Câu trả lời chỉ tồn tại trong thế giới tâm hồn của chính tôi. Nếu tôi biết cách quay về bên trong, tất cả những câu hỏi sẽ được giải đáp. Thường thì con người có xu hướng phụ thuộc và tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng đôi khi chính bản thân họ đã có đủ sức mạnh và trực giác để giải quyết vấn đề.
Tôi mê mải trong cơn mê hoặc tuyệt diệu này, thời gian trôi chậm, tâm trí tôi quay cuồng với vô số suy nghĩ đang chờ được giải đáp. Tôi suy nghĩ về những giáo sĩ đã ủng hộ tôi trở thành Pharaoh, họ chỉ làm điều đó vì lợi ích của mình. Việc xây dựng các đền thờ, tổ chức các nghi lễ cúng tế chỉ là một hình thức lợi dụng của nhóm này. Điều này là sai lầm vì thực tế là mặt trời không thống trị trong những ngôi đền lớn đang tồn tại.
Trong tâm trí tôi và lòng mọi người, Ngài luôn an ngự. Câu hỏi đã được trả lời một cách tự nhiên, khi tôi cảm nhận niềm an lạc sâu sắc bên trong. Hơi thở nhẹ nhàng thoát ra khỏi buồng phổi, tâm hồn tôi trở nên an tĩnh vô cùng. Ý thức về thân xác tan biến, đầu óc trở nên sáng suốt. Bản ngã kiêu căng của tôi tan biến vào sa mạc mênh mông. Tầm mắt tôi mở rộng, nhìn thấy ánh sáng vầng thái dương lan tỏa sự sống. Nhìn thấy rễ cây chà mọc dưới lớp cát, nhìn thấy đoàn thương buôn cưỡi lạc đà trên đường đến kinh đô Thebes. Vạn vật trở nên sống động, thân thể tôi tan hòa vào ánh sáng bao la. Tôi ngây ngất và hiểu rằng đấng Thái Dương là nguồn an lạc vô biên, toàn thân Ngài được dệt bằng muôn vàn tia sáng. Vũ trụ hiện ra với tinh tú chói sáng khắp nơi. Ngài là tình thương.
Lúc đó, tôi nhận ra rằng tình yêu đã truyền sức mạnh cho Cihone để giúp đỡ những đứa trẻ bị bệnh. Tôi nhớ câu nói của ông lão y sĩ về những đứa trẻ thiếu tình thương. Tôi hiểu rằng tôi cũng là nạn nhân của điều này vì tôi đã mất mẹ từ khi còn nhỏ và vì sao tôi trở thành một con người tàn ác hơn cả những Pharaoh trước đây. Tôi không biết mình đã bị mắc kẹt trong trạng thái này bao lâu, nhưng tôi đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi mà tôi đã tự đặt từ lâu.
*** Tôi bất ngờ tỉnh giấc và phát hiện mình đang ngồi trong một căn phòng làm việc ở New York. Cảm giác kỳ lạ và hư ảo của cuộc sống ngoài sa mạc vẫn còn đọng lại trong tâm trí tôi với những cảm xúc tuyệt vời. Tôi tự đặt câu hỏi liệu đó có phải là một trải nghiệm thực sự trong kiếp trước hay chỉ đơn giản là một giấc mơ? Tuy nhiên, giấc mơ không thể chi tiết và gợi lại những cảm nhận sâu sắc như vậy.
Thường qua một giấc mơ, người ta sẽ quên ngay, nhưng những trải nghiệm và cảm xúc này lại mãi theo tôi sau này. Tuy nhiên, khi tôi giơ tay và nhìn vào chiếc nhẫn hình con bọ hung đeo trên ngón tay, tôi không cảm nhận được gì. Tại sao khi trước đây chỉ cần nhìn vào nó, tôi có thể nhớ và sống lại tiền kiếp, nhưng hiện tại lại không thể làm như vậy? Suốt cả ngày hôm đó, đầu óc tôi hoàn toàn bị chi phối bởi những sự kiện diễn ra trong tiềm thức kiếp sống ở Ai Cập. Nếu tôi có khả năng nhớ lại tiền kiếp, thì tôi cũng phải biết chuyện gì đã xảy ra sau đó chứ? Liệu tôi có thể gặp lại Cihone, người con gái dịu dàng kia không? Và triều đại Ai Cập đã trải qua những biến cố gì sau đó? Ngày hôm sau, tôi tiếp tục nhìn vào chiếc nhẫn với hy vọng rằng nó có thể đưa tôi trở lại tiền kiếp, nhưng mong muốn này vẫn không thành hiện thực. Sau nhiều lần cố gắng vô ích, tôi nghĩ đến ông Kris.
Nếu người này có thể giúp tôi nhớ lại tiền kiếp tại Atlantis, có thể người cũng có thể giúp tôi trở lại tiền kiếp tại Ai Cập? Trong cuộc trò chuyện về kiếp sống tại Ai Cập, Thomas cho biết dù trong những phút cuối tại Atlantis, ông đã bắt đầu nhận ra cảm giác hối hận và tình thương nhưng chưa rõ ràng. Đó chỉ là một hạt giống được gieo vào tiềm thức của ông. Trong kiếp này, thông qua việc tiếp xúc với Cihone, ông đã học thêm rằng tình thương là điều ta cho đi mà không đòi hỏi gì, do đó ông bắt đầu thay đổi. Từ sự nhận thức này, ông mới hiểu rõ hơn về vị Thái Dương và trải nghiệm được những điều kỳ diệu ngoài sa mạc. Từ đó, ông hiểu rõ về sự đau khổ của nền tôn giáo cổ đang bị đánh mất bởi các nhóm giáo sĩ ở Thebes mà không quan tâm đến cuộc sống của người nghèo.
Buổi chiều đó, tôi lái máy bay trực tiếp đến Colorado. Khi tôi dừng xe trước nhà ông Kris, ông ấy đã mở cửa ra. Sau một vài câu chuyện nhỏ, tôi tóm tắt cho ông Kris nghe về trải nghiệm của mình và hỏi: “Khi trước đây ông đã nói sẽ giúp tôi nhớ lại tiền kiếp, vậy việc này đã được thực hiện chưa?” Ông Kris không trả lời ngay mà mời tôi vào nhà một cách thong thả, rồi đưa cho tôi một đĩa trái cây tươi để tôi ăn. Bất chấp sự bồn chồn và nóng nảy của tôi, ông Kris vẫn bình tĩnh nói: “Tôi có thể giúp vì ông đã nhắc tôi từ trước. Thực ra, ông phải tự phát triển khả năng mà ông đã quên trong kiếp này.”
Tôi tự hỏi: – Nhưng tôi phải làm thế nào? Ông Kris thong thả trả lời: – Khi xưa ông đã có khả năng này trong lúc đầu óc an tĩnh khi thiền định. Hiện nay ông đã để cho lòng ham muốn sai khiến, với tâm trí xáo động như thế thì làm sao ông có thể khôi phục khả năng này được? Chúng tôi yên lặng nhìn nhau trong mấy phút, câu nói của ông Kris quả có một tác động khiến tôi cảm thấy yên lòng. Tôi thốt lên: – Quả thật tình cờ khi chúng ta gặp lại nhau trong kiếp này .
Ông Kris nở nụ cười:
Chắc chắn ông đã đồng ý rằng chúng ta đã trải qua nhiều kiếp sống từ trước đúng không? Ông có tin vào luật Luân hồi không? Tôi chỉ cười bối rối mà không nói gì. Ông Kris tiếp tục: – Ông bạn ơi, đây không phải là sự tình cờ mà đã được sắp đặt từ trước. Nhờ vào sự chi phối của những động lực trong vũ trụ qua luật Luân hồi và Nhân quả mà người này gặp gỡ người kia. Có thể là vì nợ, có thể là vì duyên, có thể gặp nhau để trả nợ, có thể gặp nhau để nối lại duyên xưa. Có rất nhiều sự việc trong cuộc sống có vẻ như là ngẫu nhiên nhưng thực ra đã được sắp đặt từ trước bởi nhân duyên để mang lại kết quả nào đó.
Lắng nghe lời ông Kris, lòng tôi tràn đầy cảm xúc khác thường. Từ giờ trở đi, tôi không còn nghi ngờ gì nữa mà hoàn toàn tin rằng quy luật Luân hồi và Nhân quả tồn tại.
Ông Kris nhìn tôi một cách tinh quái và nói: – Có vẻ như ông đang tự hỏi về một người con gái và không biết mối tình này sẽ kết thúc như thế nào phải không? Tôi bất ngờ và tự đặt câu hỏi làm sao ông ấy lại biết được điều đó. Như đọc được suy nghĩ của tôi, ông Kris mỉm cười: – Tôi có thể đoán được ông đang nghĩ gì.
Tôi đang cố tình nói lảng đi vì tôi đang thắc mắc về tôn giáo thờ thần Thái Dương Amun Ra. Gần đây, tôi đã có một trải nghiệm kỳ lạ khi nhớ lại kiếp trước của mình tại Ai Cập.
Ông Kris giải thích rằng Thần Thái Dương Ra là một quan niệm cổ xưa về sự sáng tạo vũ trụ. Nó xuất phát từ tôn giáo cổ Atlantis và sau đó lan truyền qua Ai Cập khi những người tránh nạn đại hồng thủy đến định cư ở đây. Ban đầu, Thần Thái Dương Ra bao gồm nhiều lĩnh vực như thiên văn học, y học, toán học, kiến trúc, âm nhạc và nhiều lĩnh vực khác. Tuy nhiên, theo thời gian, một số lĩnh vực khoa học đã bị lãng quên. Người Ai Cập chỉ biết đến Thần Thái Dương Ra như một vị thần sáng tạo, tương tự như chúng ta sử dụng từ “Thượng Đế” ngày nay. Tôn giáo Ai Cập thờ phụng nhiều vị thần như thần sông, thần núi, thần đất, thần sa mạc và các vị thần bản địa. Ở thành Thebes, các giáo sĩ thờ phụng Amun, một vị thần bản địa, nhưng sau đó bị ảnh hưởng.
Phe nhóm này ngày càng mạnh mẽ, khiến các Pharaoh kính phục. Họ quyết định đổi tên vị thần này thành Amun Ra và tôn vinh ông như một vị thần tối cao, buộc người dân Ai Cập phải thờ phụng ông. Nhờ điều này, giới giáo sĩ đã mở rộng quyền lực của mình. Từ đó, xứ này đã mất đi những thành tựu văn hóa của thời đại trước và đi vào con đường tôn giáo sùng bái, dần dần trở thành một nền văn minh mê tín chứ không còn là một nền khoa học như trước đây.
Ông Kris tiếp tục giải thích rằng, trong quá khứ, Ai Cập là một vùng đất giàu có nằm dọc theo sông Nile, có những cánh đồng rộng lớn và ao hồ đầy tôm cá. Người dân sống ở đây rất hòa nhã và bị ảnh hưởng bởi tôn giáo thờ thần Thái Dương, mà có nguồn gốc từ châu lục Atlantis. Các vua chúa Ai Cập thời cổ đại đều xuất thân từ Atlantis, vì vậy họ có kiến thức về các lực lượng thiên nhiên ẩn dấu trong vũ trụ và biết cách kiểm soát các nguồn năng lượng từ các thiên thể để sử dụng trong các nghi lễ đặc biệt. Vì vậy, nếu ta nghiên cứu kỹ, ta sẽ thấy rằng kim tự tháp được xây dựng ở vị trí cụ thể để thu nhận năng lượng từ vũ trụ, không phải là nơi chôn cất vua chúa như các nhà khảo cổ thường nói.
Tôi bất ngờ: – Tuy nhiên, tôi nghe nói đó là nơi chôn cất thi thể các Pharaoh thời cổ đại.
Ông Kris gật đầu: – Đó là một hiểu lầm đáng tiếc. Vì hiện tại không ai biết chính xác mục đích xây dựng kim tự tháp nên tất cả chỉ là giả thuyết. Khi một nhà khảo cổ suy đoán rằng đó là mồ mả của Pharaoh, và sau đó những nhà khảo cổ khác cũng đồng ý, dư luận cũng chấp nhận mà không yêu cầu thêm bằng chứng.
Ông Kris giải thích rằng nếu ta quan sát kỹ, ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa lăng mộ của các vua chúa trong thung lũng mộ vua và các kim tự tháp.
Trên các lăng mộ luôn xuất hiện các hình vẽ, điêu khắc trên tường đá để tưởng nhớ và ca ngợi công lao của các vị vua, cùng với các bùa chú, nghi thức tôn giáo và hình ảnh người chết được phán xét.
Bởi thần Osiris ở cõi âm v.V… Ngoài ra, các quan tài còn có nhiều lớp ván quách chồng lên nhau và rất nhiều đồ đạc, của cải, vàng bạc châu báu chôn theo. Hàng trăm ngôi mộ tại thung lũng mộ vua đều được thiết trí giống nhau như thế. Trong khi đó, tất cả vách đá trong kim tự tháp hoàn toàn trống trơn, tuyệt nhiên không có một hình vẽ hay dấu hiệu gì cả. Đã có ai hỏi tại sao lại có sự khác biệt như thế chưa? Tôn giáo Ai Cập chủ trương trong lăng mộ phải ghi rõ các biểu tượng với bùa phép, thần chú, và cuốn Tử Thư [7] để đưa hồn người chết về cõi giới bên kia thì tại sao trong các kim tự tháp lại không hề có hình ảnh hay bất kỳ chữ viết nào? Tại sao người ta đã bỏ công ra xây dựng một công trình to lớn, vĩ đại mà bên trong lại trống trơn, chẳng có gì hết, không một hình ảnh, không một dấu tích, không một chữ viết? Như vậy nó đã được xây lên vì mục đích gì khác chứ không thể là lăng mộ được .Output: bởi thần Osiris ở cõi âm và những vị thần khác. Ngoài ra, các quan tài còn được xếp chồng lên nhau và chứa đựng nhiều đồ đạc, của cải, vàng bạc châu báu. Hàng trăm ngôi mộ tại thung lũng mộ vua đều có cấu trúc tương tự nhau. Tuy nhiên, tất cả các vách đá trong kim tự tháp đều trống trơn, không có hình vẽ hay dấu hiệu gì. Điều này đã gây ra câu hỏi vì sao lại có sự khác biệt như vậy. Theo tôn giáo Ai Cập, lăng mộ phải được trang trí với các biểu tượng, bùa phép, thần chú và cuốn Tử Thư để đưa linh hồn người chết về cõi bên kia. Vậy tại sao các kim tự tháp không có bất kỳ hình ảnh hay chữ viết nào? Tại sao người ta lại xây dựng một công trình to lớn, vĩ đại nhưng bên trong lại trống rỗng, không có bất kỳ hình ảnh, dấu tích hay chữ viết nào? Điều này gợi ra nghi vấn rằng nó đã được xây dựng với mục đích khác, không phải là một lăng mộ.
Hiện tại, các nhà nghiên cứu khảo cổ cho rằng kim tự tháp vĩ đại ở vùng Giza là nơi chôn cất các vị vua Ai Cập cổ đại có tên là Khufu, Khafre và Menkaure. Tuy nhiên, không ai đã tìm thấy xác ướp của các vị vua này tại đây. Dù lịch sử Ai Cập đã được ghi lại từ lâu đời và ghi chép về các vị vua và công trình kiến trúc của họ, nhưng không có bất kỳ tài liệu nào đề cập đến triều đại của ba vị vua này. Điều này khiến chúng ta tự hỏi tại sao lại như vậy. Các tài liệu cổ về Ai Cập thường ghi rõ về các công trình kiến trúc ở thung lũng mộ vua, bao gồm cả tên của các kiến trúc sư và giáo sĩ phụ trách xây dựng. Tuy nhiên, không có tài liệu nào đề cập đến quá trình xây dựng kim tự tháp và cách thức hoàn thành chúng. Điều này tạo ra một sự thiếu sót lớn. Kim tự tháp ở vùng Giza được xây dựng bằng những tảng đá khổng lồ, được xếp chồng lên nhau một cách hoàn hảo, không có bất kỳ sai lệch nào.
Mỗi khối đá có trọng lượng hàng trăm tấn, thì làm sao người ta có thể.
Làm sao hàng ngàn tảng đá vĩ đại như vậy có thể chồng lên cao đến như vậy? Dù có hàng trăm ngàn nô lệ kéo những tảng đá này lên, cũng không thể làm được như thế chỉ với sức người.
Ngày nay, dù đã sở hữu công nghệ hiện đại nhất, con người vẫn không thể làm được những công việc mà người xưa đã làm được hàng ngàn năm trước. Vậy thì ai đã xây dựng những kim tự tháp này và sử dụng những phương pháp nào? Những khối đá để xây dựng kim tự tháp được đục tách ra từ những ngọn núi xa xôi, cách xa hàng trăm dặm. Làm sao người ta có thể vận chuyển hàng ngàn khối đá khổng lồ này đến giữa sa mạc vùng Giza mà không có bánh xe lăn hay cần trục? Có lẽ người xưa đã sử dụng những phương pháp kỹ thuật thuộc một nền văn minh khác mà ngày nay chúng ta không còn biết đến? Ông Kris dừng lại, nhìn tôi và mỉm cười thêm: – Hiện nay, trong các khu rừng rậm ở châu Phi và Nam Mỹ, còn tồn tại vô số kim tự tháp tương tự như ở Ai Cập, và chúng mới được khám phá gần đây.
Các bộ tộc sinh sống ở khu vực đó đều cho rằng đó là nơi thờ cúng tổ tiên của họ, nơi thực hiện các nghi lễ tôn giáo, không ai nói rằng đó là nơi chôn cất các vua chúa. Tại sao các nhà khảo cổ lại tin rằng kim tự tháp Ai Cập là nơi chôn cất các vua chúa trong khi kim tự tháp Nam Mỹ chỉ là nơi thờ phụng? Ai đã từng đặt câu hỏi về sự khác biệt này chưa? Hãy suy nghĩ xem, những bộ tộc bán khai, sống trong những căn nhà bằng lá cây, không biết gì về kiến trúc hay toán học, làm sao tổ tiên của họ có thể xây dựng những kim tự tháp bằng những khối đá khổng lồ như vậy? Trừ khi kiến thức này bắt nguồn từ một nền văn minh đã từng tồn tại hoặc một dân tộc đã biến mất trên trái đất.
Như bạn đã biết, để tránh thảm họa lớn, người dân Atlantis đã lên đường khắp thế giới để định cư và mang theo tôn giáo của họ. Nếu bạn chú ý, bạn sẽ thấy rằng tất cả những nơi có kim tự tháp đều tôn thờ thần Thái Dương, hay biểu tượng mặt trời. Vậy tại sao ở những nơi xa xôi vạn dặm mà người dân không tôn thờ bất kỳ thần linh nào khác mà chỉ tôn thờ thần Mặt trời? Có lẽ điều này xuất phát từ một nguồn gốc chung.
Nghe ông Kris trình bày cẩn thận như vậy, tôi mới nhận ra rằng có những khác biệt rõ ràng trong các giả thuyết của các nhà khảo cổ mà ngày nay đa số mọi người tin tưởng mà không kiểm chứng xem chúng có đúng hay không. Có lẽ chỉ khi chúng ta có thể đi ngược thời gian, trở lại quá khứ, thì mới có thể hiểu rõ ý nghĩa tồn tại của những tòa tháp này.
Tôi tự hỏi: – Khi trước tôi nhớ lại kiếp sống tại Atlantis, còn bây giờ lại trải nghiệm một kiếp sống khác nữa ở Ai Cập. Thời gian ở Atlantis xảy ra khoảng hơn mười hai ngàn năm trước Công nguyên, rồi đến Ai Cập khoảng ba ngàn năm trước Công nguyên, vậy thì chuyện gì xảy ra giữa hai kiếp sống đó? Liệu tôi còn sống ở những đâu nữa không? Ông Kris chăm chú nhìn tôi, rồi nghiêm nghị hỏi: – Ông có thực sự muốn biết chuyện đó không? Liệu ông có can đảm chấp nhận sự thật không? Tôi ngạc nhiên: – Tại sao lại không? Nếu con người chết đi rồi tái sinh vào một kiếp sống khác thì thời gian ở giữa hai kiếp sống kéo dài bao lâu? Ông Kris ngần ngại nhìn tôi, rồi giải thích: – Này ông bạn, khi trước chúng ta đã nói về luật Luân hồi. Con người sinh ra rồi chết đi, chết rồi tái sinh trở lại, quanh quẩn mãi trong vòng Luân hồi – nhưng không phải ai cũng tái sinh trở lại thành người đâu. Tùy theo những nguyên nhân phức tạp mà có khi tái sinh thành loài vật, loài ma quỷ, hay các sinh vật khác nữa. Ông nên biết cõi giới chúng ta đang sống không phải là cõi giới duy nhất, còn có những cõi giới của các sinh vật khác mà chúng ta không nhìn thấy đó thôi. Ta có thể gọi đó là những chiều không gian khác nhau hay thế giới vô hình cũng được vì các giác quan hiện nay của chúng ta không thể cảm nhận được hết tất cả những thế giới này. Tuy nhiên, không nhìn thấy được không có nghĩa là chúng không đang tồn tại cùng với chúng ta .
Khi trước đây tôi đã đề cập đến quá trình tiến hóa từ loài kim thạch sang loài thảo mộc, sau đó là sinh vật cấp thấp như côn trùng. Các loài này có một kho kinh nghiệm chung, do đó hành động của chúng tương tự nhau.
Nhau. Kho này tích lũy kinh nghiệm học hỏi cho côn trùng, sau đó chuyển kiếp tiến hóa thành chim chóc, bò sát, dã thú và những sinh vật thông minh như gia súc, chó mèo. Sự hiểu biết cá nhân hóa giúp sinh vật tiếp tục tiến hóa thành loài người với bộ óc thông minh. Sự thay đổi từ loài vật cấp thấp đến loài người được gọi là luật Tiến hóa.
Ông Kris nhìn tôi một cách chắc chắn, để đảm bảo rằng tôi hiểu rõ những gì ông đang nói. Sau đó, ông tiếp tục: “Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa, cũng phải có sự thoái hóa, tức là sự thay đổi từ loài thông minh thành những loài cấp thấp hơn. Một trí tuệ lớn có thể chia ra thành nhiều trí tuệ nhỏ hơn. Vì vậy, khi một người thoái hóa thành một loài động vật, sự hiểu biết cũng bị phân tán theo những hình thức thoái hóa đó. Điều này không có nghĩa là một con vật sẽ thông minh như con người. Hãy xem ví dụ về một người chuyển kiếp thành mười con chó, mỗi con chỉ có một phần mười trí tuệ của người đó, vì trí tuệ đã được chia ra thành mười phần. Trong quá trình chia tách này, sự hiểu biết phải giảm đi, do đó những con chó này không thể thông minh như con người.”
Qua hàng triệu năm, từ loài cấp thấp lên đến loài người, sinh vật đã trải qua nhiều kiếp, học được nhiều điều và trải qua quá trình lọc bỏ để trở thành người. Với trí tuệ thông minh, con người có khả năng phân biệt đúng sai và cần tiếp tục học hỏi để tiến bộ và trở thành những bậc tiên thánh. Đáng tiếc là thay vì học hỏi để mở rộng hiểu biết, họ thường hành động thiếu hiểu biết, dẫn đến việc phải trải qua kiếp khác để học những bài học mà họ chưa nắm vững.
Ông Kris dừng lại, như để tôi có thời gian suy nghĩ, sau đó tiếp tục: – Luân hồi có thể được xem như một trường học lớn, nơi mà tất cả các sinh vật phải học hỏi cho đến khi đạt được sự hiểu biết hoàn thiện.
Sự phát triển hay suy thoái là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự sống.
Vật đó đã học được bài học. Nếu chưa hiểu rõ thì phải học lại, và đó là nguyên tắc của luật Nhân quả. Gieo hạt gì thì gặt quả đó. Mọi hành động đều có kết quả phản hồi, có thể xảy ra ngay lập tức, có thể xảy ra sau này, trong cuộc sống khác.
Những người thông minh sẽ nhanh chóng rút kinh nghiệm từ những sai lầm của mình và tự thay đổi để không mắc phải lỗi đó lần nữa. Ngược lại, những người không biết học từ sai lầm sẽ phải trải qua nhiều lần học lại, sống qua nhiều kiếp sống cho đến khi họ học được bài học mà họ cần phải học. Những người thiếu hiểu biết sẽ sống dựa trên bản năng thay vì sử dụng trí tuệ, và thường trở thành các loài thú trong các kiếp trước. Vì tâm trí của họ chưa phát triển đầy đủ và chưa học được bài học rõ ràng, họ phải tiếp tục học hỏi trong nhiều kiếp sống khác nhau trước khi trở lại làm người.
Tuy nhiên, khi một người chuyển kiếp thành nhiều con thú, sự thông minh bị phân chia ra thành nhiều phần. Sự hiểu biết cũng theo đó mà giảm đi, nên họ phải trải qua nhiều kiếp sống để học hỏi và chuyển kiếp trở lại thành người. Sự hiểu biết từ kinh nghiệm học hỏi khi xưa càng giảm đi thì sinh vật càng ngu dốt thêm. Họ trải qua hàng ngàn kiếp sống, làm con vật này, mai làm con vật khác, trôi nổi trong kiếp súc sinh, không dễ quay lại đầu thai vào thân xác con người. Vì sự hiểu biết đã bị phân tách ra thành nhiều mảnh, đâu dễ hợp lại được nữa? Thí dụ như những người tham lam thường chuyển kiếp trở thành loài giòi bọ, ăn hút ở những chỗ dơ bẩn, thì sự hiểu biết đã bị chia ra cho hàng triệu con giòi con bọ ấy, thử hỏi những con côn trùng ngu si này còn biết được gì nữa đây? Do đó, chúng phải trải qua nhiều kiếp sống, đi từ loài thú này qua loài thú khác để phát triển sự hiểu biết, rồi mới có thể tiến hóa lên thành người.
Đối với các loài côn trùng và sâu bọ, cuộc sống của chúng chỉ kéo dài vài ngày, do đó chúng phải trải qua hàng ngàn kiếp sống côn trùng trước khi có thể trở thành người. Việc trở thành người không phải là điều dễ dàng.
Khi đã mất thân xác, quay trở lại trở nên rất khó khăn. Điều này vô cùng quan trọng nhưng ít người biết đến.
Tôi hỏi lại: – Vậy trong trường hợp của tôi thì thế nào? Sau khi sống ở Atlantis, tôi đã đi đâu và làm gì? Ông Kris giải thích: – Tôi chưa trả lời câu hỏi của ông ngay lập tức vì phải giải thích sơ lược về luật Luân hồi, với hai yếu tố chính là tiến hóa và thoái hóa, để ông có thể hiểu rõ những điều tôi sắp nói sau đây.
Ông Kris nhìn tôi với ánh mắt đầy thương xót, sau đó nói tiếp: – Trong cuộc sống ở Atlantis, nơi mà kiến thức khoa học phát triển mạnh mẽ nhưng lòng nhân ái và sự học hỏi chưa được chú trọng. Vì thiếu sót này, ông và mọi người sống trong vô tâm, ích kỷ và tham lam, bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có, có quyền lợi để lấy cắp và chiếm đoạt của người khác, đó là quy tắc của những người mạnh trong xã hội Atlantis thời đó. Vì vậy, ông không nhận thức được hành động của mình. Ông gây đau khổ và thiệt thòi cho người khác, và vì thế ông phải chịu trận đắng.
Trong trường hợp của ông, khi nhìn thấy đôi chân trần của Kor, ông bị cuốn hút và muốn chiếm đoạt cô này. Ý nghĩ tham lam ấy dẫn đến một tư tưởng điên cuồng, khởi đầu cho những hành động xấu xa sau đó. Mặc dù được đào tạo để trở thành y sĩ, nhưng ông lại thực hiện những pháp môn tà đạo của xứ Og – như giết hại loài vật để cúng tế thần linh, sử dụng bùa chú để làm mê hoặc nhân tâm, sử dụng dược chất để đạt được những ham muốn về tình dục. Vì sự hiểu biết mù quáng này, đầu óc của ông trở nên điên đảo và tạo ra những tội ác lớn. Ông có muốn tôi nói thêm không? Tôi nhìn ông Kris, đôi mắt ông bừng sáng một cách lạ thường, toàn thân ông tỏa ra một khí chất nghiêm nghị. Tôi thở mạnh: – Vâng, xin ông tiếp tục. Tôi sẵn sàng lắng nghe.
Ông Kris phát biểu với một giọng trang trọng và nghiêm túc.
Người đàn ông đã sử dụng phép thuật đen tối để lừa dối và chiếm đoạt một nữ tu trong đền thờ Thái Dương. Vì hành động này, ông phải chịu trận đại họa và trở thành một loài sâu bọ chuyên hút máu và mủ từ bàn chân của phụ nữ. Nguyên nhân là do ông mê mẩn đôi chân trần của Kor, và ý niệm này đã theo ông suốt cuộc đời, dẫn đến việc ông bám vào và theo đuổi những bàn chân của phụ nữ. Sau khi qua đời trong một trận lụt lớn, ông đã chuyển kiếp thành hàng triệu con sâu bọ, sống trong những vết thương và ghẻ lở trên bàn chân của phụ nữ. Ông đã phải trải qua hàng triệu kiếp làm côn trùng chỉ vì tư tưởng mù quáng và si mê đó.
Chắc chắn ông đã biết, con người luôn có ham muốn với những thứ mà họ thích. Vì ông say mê bàn chân phụ nữ, nên nó đã ám ảnh ông suốt hàng ngàn năm.
Tiếng sấm của ông Kris vang lên, làm tôi bất ngờ và mất đi khả năng nói trong một khoảng thời gian dài. Ông Kris im lặng, nhìn tôi một cách tập trung, ánh mắt ông trở nên ôn hòa hơn.
Khi tôi đã bình tĩnh trở lại, ông Kris nói một cách thong thả: – Ông đã trải qua nhiều kiếp sống khác nhau, từ loài côn trùng cho đến các loài vật trước khi trở lại thành con người. Tuy nhiên, kiếp sống tại Atlantis không phải là kiếp sống đầu tiên của ông, còn rất nhiều kiếp sống trước đó mà ông không nhớ. Trong những kiếp sống đó, ông đã giúp đỡ nhiều người và gieo rải nhiều hạnh phúc.
Nhờ những duyên phận đặc biệt này, khi trở lại thành người, ông đã trở thành Pharaoh của một vương quốc lớn và được trải nghiệm niềm vui sướng tột độ. Tuy nhiên, trong tâm ông vẫn còn những nét ác độc từ kiếp sống tại Atlantis, khiến ông trở thành một nhà cai trị độc tài. Trước khi qua đời tại Atlantis, ông đã cảm thấy hối hận và nảy sinh tình yêu đối với Kor. Điều này là rất đặc biệt, vì người Atlantis lúc đó chưa từng biết đến hối hận hay tình yêu.
Sau nhiều kiếp trải nghiệm, ông được đầu thai thành con người tại Ai Cập để tiếp tục những bài học cần thiết.
Tôi đặt câu hỏi đầy do dự: “Vậy thì sau khi tái sinh ở Ai Cập, tôi đã học được điều gì?” Ông Kris nhìn tôi một cách tập trung.
Ông sinh ra vào thời kỳ cuối cùng của triều đại thứ hai mươi ba ở Ai Cập cổ đại. Lúc đó, Ai Cập đang trải qua sự suy thoái và kiệt quệ do việc xây dựng các lăng mộ và mồ mả cho các vị Pharaoh trước đó. Trong thời điểm này, hầu hết các Pharaoh không thể ngồi trên ngai vàng lâu do tranh chấp giữa phe giáo sĩ và các vị Pharaoh. Trong giai đoạn cuối, văn hóa Ai Cập suy đồi, dân chúng sống trong cảnh nghèo khó, quan lại tham nhũng, những kẻ cường hào ác bá lên ngôi chiếm đoạt tài sản, đất đai, nhà cửa và ruộng vườn của người dân. Pháp môn phù thủy trở nên phổ biến, giới giáo sĩ có quyền sinh sát, và các Pharaoh không tài năng, không ai cai trị được lâu.
Tôi tự hỏi: – Nhưng trường hợp của tôi thì sao? Làm sao tôi có thể nhớ lại tiền kiếp của mình ở Ai Cập? Ông Kris nở nụ cười: – Tối hôm nay, khi đầu óc của ông thảnh thơi, tôi sẽ giúp ông quay trở lại ký ức của kiếp đó. Bây giờ ông nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vì ông đã mệt mỏi khi lái phi cơ đến đây rồi .
Vào buổi tối đó, sau khi thưởng thức một ít trái cây, ông Kris nhờ tôi ngồi yên trên chiếc ghế bành để tĩnh tâm một chút. Sau đó, ông bước đến và nói nhỏ vào tai tôi một câu bằng ngôn ngữ lạ lùng, khiến tôi như lạc vào ký ức xưa ở Ai Cập.
*** Sau một cuộc phiêu lưu kỳ lạ ngoài sa mạc, tôi trở về cung điện và ngay lập tức gặp một tướng lĩnh đang đợi tại đó. Amed, tướng chỉ huy, báo cáo rằng: “Thưa Pharaoh, theo quy định hàng năm, chúng ta phải tiến hành cuộc binh chinh phạt các nước xung quanh. Tuy nhiên, ngân quỹ hiện tại đang thiếu hụt, không đủ để rèn đúc vũ khí và chiến xa. Chúng tôi xin đề nghị Pharaoh tăng thuế để có đủ nguồn tài chính cho công việc này.”
Theo truyền thống của các vị Pharaoh trước đây, Ai Cập thường thực hiện cuộc hành quân để trừng phạt các quốc gia lân cận và thu được nhiều tài sản quý như vàng, bạc, tài nguyên và nô lệ. Mặc dù tôi mới lên ngôi vài tháng trước, nhưng tôi đã sẵn sàng cho cuộc chinh phạt này.
Nhưng hiện tại nguồn tài chính lại không đủ do việc xây dựng quá nhiều đền thờ.
Tôi gọi Satt đến và hỏi ngay: “Bạn đã điều tra những người lạm dụng quỹ xây dựng chưa?” Satt trả lời: “Thưa Pharaoh! Tôi đã tìm ra một người lạm dụng công việc xây dựng, nhưng cần thêm thời gian để điều tra những người khác.”
Tôi háo hức gật đầu: – Nếu kéo dài thời gian, chúng ta sẽ phải tìm nguồn tài chính để sản xuất thêm khí giới cho cuộc chiến sắp tới. Không có khí giới, chúng ta sẽ không thể đạt được chiến thắng và mang về vàng bạc, nô lệ để xây dựng đền thờ cho các vị thần.
Chúng ta không thể để cho công trình này ảnh hưởng đến khả năng chiến đấu của quân đội.
Satt nhìn tôi một cách lạnh lùng và nói rằng đã điều tra việc xây dựng lăng tẩm cho Pharaoh. Dưới đây là bản báo cáo về Setau, kiến trúc sư trông coi việc xây dựng lăng tẩm cho ngài. Tôi có bằng chứng rõ ràng cho thấy Setau đã lấy đi một số vật liệu để xây mồ mả cho chính mình.
Tôi nắm trong tay bản báo cáo, quan sát những con số về vật liệu và nô lệ đã bị Setau cắt giảm, cùng lời khai của những nhân chứng trong vụ án. Satt đứng bên cạnh tôi, theo dõi mọi diễn biến một cách cẩn thận, sau đó nói: – Xin Pharaoh xem xét việc xử lý tên tội phạm này.
Tôi suy nghĩ trong lòng: “Người giáo sĩ này thực sự rất táo bạo. Khi tôi đang muốn điều tra việc xây dựng đền thờ của những người giáo sĩ, hắn lại điều tra việc xây dựng lăng tẩm của mình và tìm ra một tên tội phạm, thật là một động thái khôn ngoan để tránh sự xảo quyệt của kẻ thù”.
Tất nhiên việc tham nhũng ngân quỹ xây dựng lăng mộ Pharaoh là một tội ác nghiêm trọng, không thể tha thứ. Với bằng chứng rõ ràng như vậy, tôi không thể làm gì khác ngoài việc tuyên án tử hình Setau ngay lập tức. Tôi lập tức gọi quân sĩ và ra lệnh bắt Setau để ném vào hầm sư tử. Những người trong gia đình của hắn sẽ bị đày ra sa mạc và không được phép trở về.
Tuy nhiên, không chịu thua ván cờ này, tôi tiếp tục quát: – Satt ơi! Công việc điều tra của bạn chỉ là bước đầu, chắc chắn còn có những kẻ khác nữa. Từ nay trở đi, tôi muốn tự mình điều tra công trình xây dựng đền thờ của các giáo sĩ để trừng trị những kẻ tham lam, lạm quyền vi phạm pháp luật! Toàn bộ triều đình đều bị chấn động vì ai cũng biết rằng khi tôi tự mình điều tra, chắc chắn sẽ có nhiều kẻ bị đưa vào hầm sư tử. Họ đã thấy rõ sự tức giận của tôi khi ban hành những luật lệ nghiêm khắc như thế nào. Tôi nâng cao quyền uy của mình lên: – Đây là lệnh của tôi! Ngay lập tức dừng mọi công việc xây dựng đền thờ cho đến khi tôi hoàn thành điều tra.
Amed bước ra và nói: – Thưa Pharaoh! Việc điều tra này sẽ tốn nhiều thời gian. Xin ngài hãy tăng thuế ngay lập tức để chúng tôi có thể chuẩn bị rèn đúc vũ khí.
Tôi muốn đồng ý ngay, nhưng lúc đó tôi lại nghĩ về câu chuyện với một người y sĩ già mà tôi đã nghe trước đó về việc tăng thuế làm cho dân chúng khó khăn hơn. Tôi lắc đầu và nói: “Chúng ta nên ưu tiên điều tra việc xây dựng trước đã.”
Amed nhanh chóng nói: – Trước khi mùa mưa đến, chúng ta cần có vũ khí để chuẩn bị cho cuộc chiến. Nếu chúng ta chậm trễ, các chiến xa sẽ không thể di chuyển trên địa hình bùn lầy.
Là người chỉ huy quân lực, dĩ nhiên tôi biết điều này, nhưng vì đã quyết ra đòn nên tôi quát lớn: – Đây là lệnh của ta! Các ngươi không ai được nói nữa! Sau khi ra lệnh, tôi bỏ vào trong cung mặc cho đám võ quan ngơ ngác vì không ai ngờ được phản ứng của tôi lại quyết liệt Như vậy .
Sau khi Satt nối gót, tôi hỏi Pharaoh về lý do ngừng việc xây cất. Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn và nói rằng tôi có lý do riêng. Tôi đặt câu hỏi liệu nhà của hắn có muốn phản đối tôi không. Satt lùi lại và mặt mày của hắn trở nên tái nhợt.
Không đâu! Chẳng bao giờ có chuyện đó. Chính chúng tôi đã giúp ngài lên ngôi Pharaoh, vậy mà ngài lại có thể phản bội chúng tôi sao? Tôi cười cười: – Nếu ngươi từng có ý đồ phản bội, thì bây giờ ngươi còn có cái đầu trên vai không? Satt hoảng sợ thốt lên: – Thưa Pharaoh, đúng vậy. Nhưng tại sao ngài lại ngừng xây dựng đền thờ? Tôi tức giận: – Là Pharaoh, ta có quyền làm gì ta muốn! Ta còn có thể phá hủy tất cả các đền thờ của các ngươi, giết không còn một tên thầy tu nào nữa.
Satt lui lại dựa lưng vào vách tường, khuôn mặt xám lại vì hắn biết rõ bản tính ngang tàng hung bạo của tôi: – Pharaoh nên bình tĩnh lại. Chúng ta đã thống nhất là khi lên ngôi, Pharaoh sẽ xây nhiều đền thờ ở khắp nơi. Ngài quên rồi sao? Nếu dừng công trình, hàng ngàn thợ thuyền sẽ mất việc làm. Rồi họ sẽ sống bằng gì? Loạn lạc sẽ xảy ra. Tôi e việc này sẽ có hại hơn là có lợi.
Câu nói của Satt làm tôi giật mình suy nghĩ một lát, nhưng lệnh đã ban ra không thể thu lại. Tôi tiếp tục: – Ta biết rõ điều đó, nhưng ta muốn xem xét tại sao lại cho xây quá nhiều đền thờ Như vậy .
Sau khi ngồi xuống, Satt cầu xin với giọng nói nhẹ nhàng: – Xin Pharaoh xem xét kỹ, hãy dừng việc xây dựng đền thờ vì nó sẽ gây rối nhiều công việc. Trong suốt nhiều năm qua, xây dựng đã là công việc quan trọng nuôi sống nhiều thợ thuyền và nô lệ. Chúng ta không thể để họ mất đi công việc.
Tôi nhìn chằm chằm: – Ta đã quyết định. Nhà ngươi còn dám tranh luận với ta hay sao? Satt cố gắng giải thích:.
Không phải như vậy. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần tiếp tục xây dựng lăng tẩm cho ngài. Nếu Setau bị xử tử, chúng ta phải tìm người khác để thay thế. Ngài cần chuẩn bị cho cuộc sống ở thế giới bên kia. Ngài nghĩ sao khi gặp các thần linh mà ngài vừa ngừng xây dựng đền thờ của họ? Câu nói của hắn khiến tôi càng tức giận hơn, tôi quát lớn: – Ngươi tưởng ta không biết việc ngươi đã cho xây hàng trăm đền thờ, nuôi dưỡng hàng ngàn giáo sĩ và tín đồ của họ à? Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn mà số lượng đền thờ và giáo sĩ lại tăng lên đến vậy? Có phải các giáo sĩ có nhiều vợ và nô lệ hơn cả Pharaoh không? Ai là người cai trị Ai Cập? Pharaoh hay giáo sĩ? Câu nói của tôi khiến Satt hoảng sợ thực sự và không dám nói gì nữa. Tôi lặng lẽ rời khỏi hậu cung để để hắn đứng đó.
Đối với tất cả các Pharaoh Ai Cập, việc quan trọng nhất khi lên ngôi là xây dựng một lăng tẩm vĩ đại để đảm bảo cuộc sống sau khi qua cõi giới. Vì vậy, việc tìm một kiến trúc sư để xây dựng lăng mộ từ sớm là ưu tiên hàng đầu, vì công việc này thường kéo dài trong nhiều năm. Khi lăng mộ càng lớn, thì thời gian xây dựng càng lâu, có khi kéo dài cả vài chục năm. Không ai biết Pharaoh có thể sống được bao lâu, nhưng nếu khi qua đời mà lăng mộ vẫn chưa hoàn thành thì thật là một điều đáng tiếc. Vì không có một nơi an nghỉ đẹp, thì không thể có một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia. Tuy nhiên, việc tìm một kiến trúc sư thay thế không dễ dàng chút nào, vì công việc này luôn được bảo mật. Chỉ có Pharaoh và kiến trúc sư, hoặc một số người liên quan, mới biết chi tiết về công trình này. Lăng mộ của các Pharaoh Ai Cập được đào sâu vào vách núi ở một nơi gọi là thung lũng mộ vua, và được bảo vệ bởi quân lính cẩn mật. Mỗi lăng mộ đều được thiết kế với nhiều chi tiết đặc biệt để ngăn chặn trộm cắp. Bên trong lăng mộ có nhiều phòng và lối đi khác nhau, với các cạm bẫy được sử dụng để đánh lừa những kẻ đào mộ, và chỉ có kiến trúc sư mới biết về những cạm bẫy này. Vì vậy, việc thay thế kiến trúc sư khi công việc xây dựng chưa hoàn thành là một vấn đề rất phức tạp và khó giải quyết.
Sáng hôm sau, Satt đã đưa đến một kiến trúc sư mới, người có dáng vóc cao lớn. Satt nói: – Thưa Pharaoh, đây là Samut, người đã từng làm phụ tá cho Setau trong việc xây dựng ở Kanak và Luxor trước đây, nên anh ấy đã quen thuộc với các dự án xây dựng mà Setau đã để lại. Xin Pharaoh thuê người này.
Khi thấy Samut, tôi bất ngờ vì anh ta chính là chàng trai tôi đã gặp ở nhà người y sĩ già cùng với Cihone hôm trước. Tất nhiên, lúc đó Samut không nhận ra tôi, một phần vì đã tối, tôi còn che một phần khuôn mặt và đang mặc một tấm áo choàng cũ.
Tôi ngồi trên ngai vàng tráng lệ, khiến Samut không dám nhìn lâu mà phải quỳ xuống chờ lệnh.
Tôi do dự: – Bạn có biết công việc xây dựng này phức tạp đến đâu không? Satt nhanh chóng trả lời: – Tôi đã cho Samut xem qua kế hoạch xây dựng và anh ấy hiểu rõ từng chi tiết. Vì đã làm việc với Setau trước đây, anh ấy còn biết khả năng của những người làm dưới quyền ông này. Hiện tại, khó có thể tìm được người nào tốt hơn anh ấy. Xin Pharaoh cho phép anh ấy tiếp quản công việc này.
Suy nghĩ vẫn chưa kết thúc, Samut đã phát biểu: – Thưa Pharaoh, tôi đã xem qua đề án xây dựng của Setau và hiểu rõ công việc này cần được thực hiện như thế nào.
Satt tiếp tục: – Mỗi kiến trúc sư có phong cách thiết kế và ý tưởng riêng, việc tìm kiếm một người mới để tiếp tục công việc chưa hoàn thành có thể gây trì hoãn trong quá trình xây dựng. Xin Pharaoh đưa ra quyết định.
Trước một việc quan trọng như vậy, tôi không thể trì hoãn việc xây dựng ngôi mộ cho mình nên tôi đã nhờ Samut làm nhiệm vụ đó. Các công nhân xây dựng lăng tẩm cho Pharaoh phải làm việc tại thung lũng mộ vua, cách thủ đô Thebes khá xa. Vì vậy, họ đã đưa gia đình của mình đến sống tại một ngôi làng nhỏ gần đó có tên là Deir el-Medina. Không lâu sau đó, tôi đã gọi Erhu, một thám tử đáng tin cậy đến.
Ta mong ngươi theo dõi quá trình xây dựng lăng mộ của ta và thông báo ngay cho ta nếu có bất kỳ sự việc đáng ngờ nào xảy ra. Ta muốn được biết chi tiết để đảm bảo không ai có thể gian lận thêm nữa.
Erhu cười lớn: – Sau khi Setau qua đời, hạ thần đã đảm bảo không ai dám thách thức nữa, thưa Pharaoh.
Tôi thêm nói: – Ta muốn tìm hiểu về Samut, xem hắn hoạt động như thế nào.
Erhu báo cáo rằng sau khi được giao trọng trách cao hơn và nhận mức lương hậu hĩnh như một kiến trúc sư, Samut đã lập gia đình và chuyển đến sống tại Deir el-Medina, gần công trình.
Tôi hỏi:. – Gia đình của hắn gồm những ai? Người thám tử trả lời: – Chỉ có hắn và một cô vợ trẻ ở đó thôi ạ .
Trong lòng tôi bỗng nổi lên một cảm xúc kỳ lạ khi biết rằng người con gái mà tôi rất thích đã có chủ.
Sau vài ngày, Satt tiến vào trình bày một báo cáo: – Kính đề Pharaoh, tôi đã hoàn thành cuộc điều tra về các công trình xây dựng đền thờ và phát hiện một số vấn đề không minh bạch cùng với những người có liên quan. Xin Pharaoh xử lý ngay những kẻ này.
Tôi suy nghĩ trong lòng: “Người giáo sĩ này thật dũng cảm, tôi đã tuyên bố sẽ tự mình điều tra vụ việc xây dựng của người giáo sĩ mà hắn lại đưa ra vài lời tốt đẹp để che đậy cho phe nhóm của mình”.
Thay vì tức giận, tôi đáp: – Nếu như vậy, bạn hãy tuân thủ theo quy tắc và tôi sẽ không cần phải quan tâm nữa.
Satt hạnh phúc nói ngay: – Nếu có thể, xin Pharaoh cho chúng tôi tiếp tục nhiệm vụ xây dựng ngôi đền thờ.
Tôi đáp:
Hôm nay, chúng tôi muốn đi xem tiến độ công trình xây dựng đền tẩm của chúng tôi để có thêm suy nghĩ.
Mặc dù không thoải mái, Satt đã tổ chức một đội quân lính để hộ tống tôi và hoàng hậu Nedjem đến thung lũng nghĩa địa của vua.
Nhận được tin Pharaoh đến, Samut nhanh chóng ra đón. Anh ta thông báo về tiến độ công việc và dẫn tôi tham quan công trình đang được đào sâu vào lòng núi. Đến giờ ăn trưa, quân sĩ đã sẵn sàng phục vụ những món ăn đã được chuẩn bị trước cho tôi và hoàng hậu Nedjem. Tôi ngồi ăn dưới mái lều được xây trên một mô đất cao, từ đó có thể quan sát các thợ xây và nô lệ đang làm việc dưới đất. Trong lúc ăn, tôi bất ngờ nhìn thấy một thiếu nữ từ xa mang theo một giỏ thức ăn đến phân phát cho các thợ, một hình bóng rất quen thuộc. Trong lòng tôi như được thổi một luồng gió mát – người thiếu nữ đó chính là Cihone.
Gần đó, Erhu vô tình thông báo rằng đó là vợ của Samut. Trong giờ ăn, vợ của các thợ xây phải mang thức ăn đến, nhưng chỉ dành cho những người già nua.
Có rất ít người vợ trẻ dám mạo hiểm đi vào đám đông trai tráng thợ thuyền mà không sợ bị trêu chọc hay quấy rối. Tuy nhiên, cô này khác biệt. Không chỉ vì cô là vợ của Samut, ngày trước vợ của Setau cũng không dám đến đây. Tôi hỏi dồn: – Nhưng làm sao? Gã thám tử hơi ngạc nhiên: – Cô này thì khác, Pharaoh có thấy không? Cô ta mang rất nhiều thức ăn phát cho những người chưa có gia đình, không có ai lo cơm nước và những người lớn tuổi mà người vợ già không thể đi từ làng Deir el-Medina đến đây. Trước đây chưa có ai làm như vậy.
Dù có nhiều phụ nữ mang đồ ăn đến cho chồng, nhưng khi Cihone đi qua, đám đông luôn tránh ra một bên.
Không có ai đùa cợt, trêu chọc như thường thấy ở các công trường xây dựng khác. Cihone tỉnh táo phục vụ thức ăn cho mọi người, sau đó chuyển sang băng bó cho những người bị thương trong quá trình làm việc. Tôi nhìn Samut, anh ta vẫn cúi đầu ăn và xem xét bản vẽ.
Vẽ công trình sao cho tập trung tối đa, không để ý đến người vợ trẻ đang ở giữa đám đông đàn ông.
Erhu nói thêm: – Vợ Samut là con của một y sĩ nên biết cách băng bó, chăm sóc các vết thương. Mặc dù công trường cũng có y sĩ túc trực tại đây nhưng ai cũng muốn được cô này chăm sóc. Từ khi cô này xuất hiện, không còn những vụ xung đột, đánh nhau giữa các đám thợ nữa.
Tôi quan sát Cihone chăm sóc những người bị thương, cô ấy không chỉ băng bó mà còn tận tâm nói chuyện động viên họ. Những người thợ xung quanh đều ngưỡng mộ cô ấy vì cách cô ấy nói chuyện nhẹ nhàng, tình cảm với mỗi người. Không ai có thái độ không tôn trọng trước cô gái dễ thương đó.
Tôi đang quan sát Cihone thì đột nhiên có tiếng ồn ào, sau đó là tiếng kêu gào của một người phụ nữ gần đó. Tôi thấy đám binh lính đang cố gắng kéo người phụ nữ đó ra xa. Erhu đến và báo cáo: – Thưa Pharaoh, đó là vợ của Setau, theo lệnh của ngài, toàn bộ gia đình Setau phải bị đày ra sa mạc, nhưng cô ấy đã trốn thoát.
Hôm nay, khi biết tin Pharaoh sẽ đến đây, cô đã dũng cảm tới đây để gặp Pharaoh và mong muốn được ở lại để sinh con.
Trước khi tôi có thể phản ứng, Cihone đã nhanh chóng đến bên người phụ nữ kia để an ủi. Đám binh sĩ không biết phải làm gì trước hai người phụ nữ này. Thấy vậy, Erhu lao vào: – Làm sao cô ấy có thể trốn ở đây mấy ngày mà không ai biết. Chúng ta phải bắt cô ấy ra sa mạc.
Không biết tại sao, tôi ngăn lại: – Mang cô ấy đến đây để tôi xét xử.
Erhu vội truyền lệnh, đám lính đưa người phụ nữ đến trước tôi. Cihone cũng theo sau. Vợ của Setau quỳ lạy: – Thưa Pharaoh, tôi biết chồng tôi đã phạm tội và đã bị xử tử. Nhưng hiện tại tôi đang mang bầu, nếu bị đày ra sa mạc thì mẹ con tôi không thể sống sót. Xin Pharaoh thương tình cho tôi được ở lại đây để chăm sóc con.
Trước đây, tôi đã sống cùng đoàn quân trấn đóng vùng biên thùy ở sa mạc, vì vậy tôi hiểu rõ tình hình ở đó. Bị đày ra sa mạc có thể coi là một án tử, vì không có điều kiện sinh sống. Hầu hết những tội phạm bị đày ra sa mạc không thể sống sót được vài tháng, đặc biệt là một người phụ nữ mang thai sắp đến ngày sinh như thế này. Tuy nhiên, khi đã ra lệnh, không dễ dàng thay đổi được.
Tôi quan sát Cihone đang ân cần an ủi người phụ nữ này và bỗng nghĩ về quan niệm về tình thương mà tôi đã thảo luận với người y sĩ già hôm trước. Trong lúc tôi đang suy nghĩ, Cihone đột nhiên đến và quỳ xuống trước mặt tôi, xin Pharaoh ban ơn để cho chị ấy được ở lại và sinh con.
Cha của đứa trẻ mang tội, nhưng đứa trẻ không có tội gì cả. Nếu Pharaoh đồng ý, tôi sẵn lòng chăm sóc chị ấy cho đến khi chị ấy sinh con xong.
Câu nói của Cihone khiến tôi bất ngờ và có một sức ảnh hưởng đặc biệt. Tôi đồng ý và giơ tay chỉ thị: – Được, bạn có thể ở lại Deir el-Medina để sinh con, sau đó chúng ta sẽ xử phạt.
Sau khi Setau nhận được, vợ anh ta rất vui mừng và cảm ơn anh ta trước khi rời đi. Cihone cũng đi theo. Tôi nhìn theo bóng dáng của cô ấy mờ dần sau những cồn cát của sa mạc.
Trong vài tuần gần đây, việc tạm ngừng xây dựng các công trình đền thờ đã gây ra sự bất bình trong vương quốc, khiến cho các thợ và nô lệ đột nhiên không có việc làm để kiếm sống. Nguyên nhân của lệnh này vẫn là một điều bí ẩn. Đối với Ai Cập, việc xây dựng lăng tẩm, mồ mả và đền thờ là một nghề quan trọng, giúp nuôi sống hàng trăm ngàn người.
Hiện tại, mọi thứ đều dừng lại và gây ra sự bối rối và lo lắng vì không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Giới giáo sĩ cảm thấy không hài lòng nhưng không dám thể hiện thái độ vì từ trước đến nay, tôi luôn là người đã giúp đỡ họ.
Các quan lại triều đình cũng không hài lòng vì tôi không đồng ý tăng thuế. Dù các tướng lĩnh đã đến xin nhiều lần, tôi vẫn kiên quyết không cho phép vì tôi lo lắng về những hậu quả mà dân chúng phải chịu đựng, như lời của một vị y sĩ già.
Tôi đã thức khuya suy nghĩ về những vấn đề này suốt nhiều đêm. Nếu mọi chuyện diễn ra theo quy luật – tăng thuế để thu tiền.
Việc rèn đúc vũ khí để làm vui lòng võ quan và xây dựng đền thờ để làm vui lòng giới giáo sĩ là điều dễ dàng. Nhưng dân chúng sẽ phải chịu đựng áp lực này. Tương lai của họ sẽ như thế nào khi điều kiện sống trở nên khó khăn và trẻ em không được dạy dỗ cẩn thận? Tôi nghĩ về địa vị quyền uy của mình là Pharaoh và cảm thấy cô đơn trong cung điện này với những mỹ nữ xinh đẹp. Tôi tự hỏi liệu Cihone có nhớ hay nghĩ gì về tôi không? Tôi nghĩ về Thái Dương và trải nghiệm độc đáo ở sa mạc, cũng như việc lãng phí tài nguyên vào những đền thờ lớn cho giáo sĩ đã đưa tôi lên ngôi. Tôi nghĩ về tình thương trong cuộc sống mà trước đây tôi không biết và người phụ nữ xinh đẹp đã dùng tình yêu để chăm sóc những đứa trẻ bị bệnh. Tôi thầm nghĩ, nếu tôi là một thường dân như Samut và có một người vợ như Cihone, tôi sẽ rất hạnh phúc.
Trong lúc tôi đang lạc trong suy nghĩ, hoàng hậu Nedjem xuất hiện. Tôi đã lâu không gặp Nedjem, cuộc hôn nhân với cô gái quý tộc chưa đầy mười sáu tuổi này chỉ là một sự sắp đặt của quyền lực. Sau lễ cưới, tôi đã thông minh đưa ra một quyết định để ngăn Nedjem không được vào phòng riêng của tôi, để tôi có thể tập trung vào suy nghĩ.
Tôi nhìn Nedjem với ánh mắt nghiêm trọng: – Ai cho phép bạn vào đây? Nedjem nhẹ nhàng nói: – Tôi biết rằng Pharaoh không được an ổn và thường mất ngủ. Là vợ chồng, dù chúng tôi không sống chung phòng nhưng tôi vẫn luôn quan tâm đến sức khỏe của Pharaoh. Gần đây, tôi biết rằng Pharaoh không muốn tiếp xúc với các cung nữ, mặc dù triều đình đã tuyển nhiều người từ xa để phục vụ ngài.
Tôi tức giận hét lên: – Đó là nhiệm vụ của tôi. Ai cho phép cô ấy tham gia vào? Nedjem lên tiếng: – Xin Pharaoh hãy bớt tức giận và suy nghĩ lại, ngài chưa có người kế thừa.
Nếu xảy ra sự việc gì thì ai sẽ là người thừa kế? Dù thế nào đi nữa,
Trước sau gì thì ngài cũng cần phải có vương tử để tiếp nối sự nghiệp, do đó thiếp sợ…
Tôi tức giận: – Tôi hiểu! Nhưng hiện tại không phải là thời điểm để đề cập đến điều đó.
Nedjem nhìn tôi một cách dịu dàng và nói nhẹ nhàng: “Thiếp hiểu rằng cuộc hôn nhân của chúng ta chỉ là một sắp đặt để ngài trở thành Pharaoh, nhưng thiếp chấp nhận điều đó. Trong vài tháng qua, Ai Cập đã có ba vị Pharaoh lên ngôi, nhưng họ chỉ cai trị được vài tháng rồi qua đời. Nội bộ tranh chấp, triều đình không ổn định, quốc gia rối loạn và Nubia đang xâm lăng. Vì vậy, thiếp sẵn sàng chấp nhận để ngài có thể cầm quyền và cứu vãn Ai Cập. Tuy nhiên, thiếp lo sẽ có những biến cố xảy ra cho Ai Cập trong tương lai nếu không có người kế vị.”
Tôi cười to: – Nàng không cần phải diễn đạt quá rõ ràng. Ta hiểu ý nàng nhưng ta không muốn thực hiện điều đó. Nàng hãy rời đi để ta được nghỉ ngơi.
Nedjem vẫn nhẹ nhàng và kiên nhẫn: – Xin Pharaoh đừng hiểu lầm ý thiếp. Thiếp biết ngài chưa từng quan tâm đến thiếp và bây giờ ngài đã quan tâm đến một người con gái khác.
Tôi lắng nghe nhưng bình tĩnh đáp: – Nàng đã xong công việc chưa? Xin đừng nói những điều không đúng, nàng không biết gì mà nói. Xin đừng khiến tôi tức giận.
Nedjem nhìn tôi với một nụ cười tinh tế: – Xin Pharaoh hãy lắng nghe. Dù ngài không nói, nhưng thiếp vẫn hiểu.
Tôi cười to: – Tất cả các nàng công chúa trong hoàng cung này, ta không để ý đến ai cả.
Tất cả chỉ đều là thức ăn có hại. Chúng ta sẽ tiến hành loại bỏ chúng để hoàn tất.
Nedjem vẫn nhẹ nhàng: – Thiếp biết Pharaoh không để ý đến bất kỳ ai trong cung, nhưng lại lo lắng về tâm tư của một người con gái khác.
Tôi thay đổi giọng tức giận quát.
Nàng đang ám chỉ đến ai? Nedjem nói nhỏ để tôi nghe rõ: – Thiếp biết Pharaoh đang quan tâm đến vợ của Samut.
Lời Nedjem vang lên như tiếng sấm, khiến tôi bất ngờ nhảy dậy. Tự nhiên, tôi nắm lấy cổ Nedjem và hét lớn: – Nàng nói gì vậy? Nedjem nhẹ nhàng gỡ tay tôi ra và tiếp tục: – Trước đây, tôi nghĩ rằng Pharaoh quá bận rộn với công việc triều chính nên không quan tâm đến các cung tần xinh đẹp. Nhưng khi tôi đi kiểm tra công trình xây dựng lăng tẩm, tôi nhận ra rằng ánh mắt của Pharaoh không rời khỏi Samut, người vợ của ông. Vì vậy, tôi muốn nói với Pharaoh rằng xin ông bỏ qua cho tôi.
Nedjem nói một cách bất ngờ và chân thành, sự quan tâm của anh ấy khiến tôi bối rối. Nedjem tiếp tục: – Nếu Pharaoh thực sự muốn, không có gì là không thể. Chỉ cần ngài ra lệnh, mọi việc sẽ được hoàn thành ngay lập tức.
Tôi rất bối rối: – Không phải như vậy. Chúng ta không thể làm điều đó.
Nedjem nhẹ nhàng nói: – Nếu Pharaoh không muốn, thì tôi sẽ làm. Tôi chỉ muốn anh thoải mái để trị vì Ai Cập. Trong nhiều năm qua, không ai tài giỏi và can đảm như anh. Nhờ anh mà tình hình chính trị đã ổn định hơn và tránh được xâm lược từ bên ngoài. Dù chỉ là một công chúa nhỏ sống trong cung, nhưng tôi cũng biết quan sát và nhận xét. Tôi đồng ý kết hôn với anh để giữ cho vương quốc ổn định.
Thiếp mong ngài tìm niềm vui để dẫn dắt vương quốc này và thiếp sẵn lòng hi sinh tất cả vì Ai Cập.
Lời nói của hoàng hậu Nedjem đã làm tôi bất ngờ. Suốt thời gian qua, dù chúng tôi được gọi là vợ chồng nhưng chẳng bao giờ gần gũi hay trò chuyện với nhau – trừ những ngày đầu tiên. Hôn nhân này chỉ là một sự sắp đặt trước đó nên tôi không biết gì về người vợ này. Và lời tâm sự chân thành của Nedjem đã khiến tôi rất ngạc nhiên.
Nedjem tiếp tục nói: – Nếu Pharaoh mong muốn gặp vợ của Samut, điều đó không phải là điều khó khăn. Tôi đã mời cô ấy vào cung. Nếu ngài muốn, tôi sẵn lòng sắp xếp để cô ấy phục vụ ngài.
Tôi cảm thấy bất ngờ và tức giận khi nghe điều này: “Cô ấy nói gì vậy? Ai cho phép cô ấy làm như vậy?” Nedjem trả lời một cách chân thành: “Trước đây, tôi chỉ mong muốn được làm một điều gì đó cho Pharaoh.”
Thiếp đã cho phép người gọi cô ấy vào cung để trò chuyện và nếu ngài đồng ý, ngài có thể… Tôi không biết phải nói gì lúc đó: – Chúng ta không thể làm như vậy được.
Nedjem khích lệ nhìn tôi và nói: – Pharaoh hãy yên lòng, hiện tại cô ấy đang đợi ở phòng riêng của tôi. Ngài có thể ngồi sau tấm màn để nghe tôi và cô ấy trò chuyện.
Nedjem bước ra khỏi phòng một cách thong thả, tôi không kịp phản ứng và cũng đứng dậy để đi theo người vợ hoàng hậu trẻ tuổi này. Tôi tiến vào phía sau phòng riêng của Nedjem và thấy Cihone đang ngồi chờ sẵn từ lâu, với vẻ mặt lo lắng. Hoàng hậu vẫy tay ra hiệu, đám cung nữ vội vàng rời khỏi phòng. Trong phòng chỉ còn hai người phụ nữ. Tôi đứng bối rối sau tấm màn lớn, không thực sự hiểu tại sao mình lại làm như vậy.
Cihone giản dị nhưng tại sao lại như đang tỏa sáng một góc phòng thu hút tâm trí tôi.
Nedjem nói: – Bạn có biết tại sao tôi gọi bạn đến đây không? Cihone lễ phép lắc đầu: – Tôi thật sự lo lắng vì không hiểu tại sao Hoàng hậu lại mời một người thường như tôi đến đây ạ.
Nedjem mỉm cười, nói một cách thân mật: – Ngươi không còn là người bình thường nữa, ngươi là vợ của người đã xây dựng lăng tẩm cho ta và Pharaoh, chính vì vậy ta gọi ngươi vào đây là để.
Khen ngợi ngươi đã dũng cảm xin cho vợ của Setau được ở lại Deir el-Medina để sinh con. Chắc ngươi hiểu rằng khi Pharaoh đã ra lệnh thì không thể thay đổi, vậy nên ta muốn biết lý do ngươi đã làm điều đó? Cihone cúi đầu: – Việc tha tội cho vợ của Setau là do sự thông minh và sáng suốt của Pharaoh, còn tôi không biết gì thêm…
Nedjem tiếp tục: – Câu trả lời của ngươi thật khôn khéo. Nhưng tại sao ngươi lại lên tiếng xin tha tội cho vợ Setau? Cihone ngập ngừng: – Tôi không biết, nhưng tôi không thể chấp nhận việc một người phụ nữ vô tội và một đứa trẻ chưa chào đời phải chịu một án phạt nặng như vậy. Nếu tôi đã làm sai, xin Hoàng hậu chỉ dạy cho tôi.
Nedjem gật đầu: – Không! Ta ngưỡng mộ lòng dũng cảm và lòng nhân ái của ngươi, vì vậy ta muốn mời ngươi vào cung để giúp ta.
Cihone đột ngột kinh ngạc: – Tại sao vậy? Trong cung có gì thiếu người làm công việc đó…
Nedjem nhẹ nhàng nói: – Nhưng tôi vẫn thích những người dũng cảm, dám nói lên sự thật như bạn. Được đưa vào cung, dù chỉ làm người phục vụ hầu hạ, vẫn là một ân huệ lớn với nhiều người. Vì cuộc sống trong cung sung sướng hơn rất nhiều so với bên ngoài, và còn có thể lo cho cả gia đình nữa.
Cihone lắng nghe và nói: – Hoàng hậu xin suy nghĩ lại, tôi mới kết hôn và phải chăm sóc cho Samut và những công nhân xây dựng, không ai lo lắng về việc ăn uống.
Nedjem vẫn bình tĩnh: – Ta đã biết điều đó và đã sẵn lòng gửi một người đến chăm sóc cho những người thợ xây này. Sống trong cung điện, cách ly với mọi sự ồn ào bên ngoài, ta cần một người thông minh và dũng cảm như ngươi để quan tâm.
Sự chia sẻ. Những cung nữ phục vụ xung quanh chúng ta không có ai được như bạn.
Cihone rụt rè: – Xin Hoàng hậu xem xét lại, tôi chỉ là một cô gái bình thường, không biết gì về việc làm trong triều đình. Xin Hoàng hậu cho phép tôi trở về Deir el-Medina.
Nedjem nói với sự quyết đoán: – Chắc bạn cũng biết, không ai dám phản đối ta hoặc Pharaoh. Ý của ta và Pharaoh là mệnh lệnh và bạn phải tuân theo. Tuy nhiên, ta không xem bạn là một người hầu hạ mà là một người bạn để chia sẻ tâm sự, vì ta ngưỡng mộ những người có tấm lòng như bạn.
Cihone nhìn hoàng hậu: – Xin Hoàng hậu cho phép tôi thảo luận vấn đề này với Samut.
Nedjem nở nụ cười: – Ta đã hỏi Samut và hắn ta đã đồng ý.
Cihone thốt lên: – Samut đã đồng ý chưa? Tại sao tôi không biết gì về điều này? Nedjem cười: – Được trở thành kiến trúc sư xây dựng lăng tẩm cho Pharaoh là một vinh dự lớn, và khi vợ tôi được đưa vào cung, địa vị và ảnh hưởng của Samut càng tăng lên. Có ai có cơ hội tốt như vậy đâu? Cihone im lặng một lúc, nhưng vẫn quyết định: – Nhưng tôi muốn thảo luận về điều này với Samut.
Nedjem gật đầu: – Tất nhiên, bạn có thể quay trở lại Deir el-Medina ngay bây giờ nhưng hãy nhớ rằng khi tôi gọi, bạn phải đến gặp tôi ngay lập tức. Hãy nhớ đây là mệnh lệnh của hoàng hậu.
Khi Cihone quay lưng và bước đi, tôi lúng túng tiến vào phòng: – Tại sao cô ấy lại làm như vậy? Nedjem nhìn thẳng vào đôi mắt tôi.
Pharaoh không muốn có cơ hội tiếp xúc gần gũi với Cihone sao? Tôi cảm thấy xấu hổ một chút nhưng cố gắng giữ vẻ khó chịu: – Đây là việc cá nhân của tôi, không cần nàng can thiệp vào.
Nedjem tỏ ra bình tĩnh: – Tôi hiểu rằng Pharaoh muốn gì và tôi sẵn lòng làm hài lòng ngài để ngài có thể yên lòng cai trị vương quốc này. Hiện tại, tình hình đang có những thay đổi tích cực, vì vậy tôi không muốn những rối loạn như trước đây xảy ra lại.
Suốt đêm đó, tôi suy nghĩ về những người tu sĩ, về Cihone và cuộc trò chuyện của Nedjem cho đến khi bình minh mới chợp mắt.
Theo phong tục tại Thebes, tượng thần Amun Ra được giữ cẩn thận trong một phòng kín, chỉ vài giáo sĩ cấp cao được phép vào. Mỗi năm, tượng thần này được đưa ra ngoài để rước quanh Thebes và ban phép lành cho dân chúng. Đây là một buổi lễ quan trọng, khi mọi người mang đồ cúng và cầu xin với tượng thần này. Buổi rước diễn ra trang trọng, với tượng thần đặt trên một chiếc kiệu lớn do mười giáo sĩ khiêng. Sau đó là dàn nhạc và kiệu của Pharaoh và hoàng hậu, cùng các quan lại trong triều. Dân chúng trải thảm và đặt lễ vật trước nhà để cúng dường. Nhóm giáo sĩ đi sau đám rước sẽ thu nhận lễ vật để chia chác. Tôi ngồi trên kiệu nhìn tượng thần được rước đi quanh phố, nhìn lễ vật được bày trên đường và tự hỏi liệu tượng thần này có liên quan gì đến đấng Thái Dương mà tôi thấy trong linh ảnh ngoài sa mạc không. Tôi cũng tự hỏi ai đã tổ chức những việc như thế này. Tôi nghĩ về tiếng nói vô thanh “Ta chính là tình thương” và cảm thấy khó chịu khi nghe lời cầu xin của dân chúng và những hứa hẹn của giáo sĩ về việc thu nhận lễ vật.
Ngày hôm sau, Satt đến thăm tôi.
Có thể Pharaoh đã nhận ra rằng, số lượng lễ vật thu được trong năm nay không nhiều như các năm trước. Đa số người dân vẫn đang lo lắng vì tình trạng ngừng xây dựng. Nhiều người không có việc làm, không thể nuôi gia đình nên không thể cống hiến nhiều như trước đây. Tôi đã xử lý những tội phạm rồi. Xin Pharaoh cho phép chúng tôi tiếp tục xây dựng trở lại.
Tôi gật đầu: – Sau khi suy nghĩ kỹ, việc xây dựng quá nhiều đền thờ và nuôi dưỡng quá nhiều giáo sĩ cùng gia đình của họ đã trở thành một gánh nặng đối với ngân sách triều đình. Vì vậy, tôi đã quyết định giảm việc xây dựng và đồng thời trừng trị những kẻ làm thâm thủng ngân sách triều đình, nhằm ngăn chặn việc này tái diễn trong tương lai.
Satt hoảng sợ: – Ngài không thể thực hiện điều đó. Nếu không cho xây dựng, dân chúng và nô lệ sẽ phải làm gì? Tôi la lớn: – Nhà ngươi đang thách thức ta à? Satt lắc đầu: – Tôi không dám nhưng Pharaoh đã cam kết trước các thần linh, nên phải giữ lời ạ.
Tôi cười lớn: – Bạn đừng dùng các thần linh để đe dọa tôi.
Sau khi nói xong, tôi đưa tờ báo cáo của các thám tử riêng cho hắn xem và nói: “Ngươi hãy nhìn đây! Số tội phạm mà ngươi đưa ra chỉ là một phần rất nhỏ, không đáng kể. Ta đã tiến hành điều tra kỹ lưỡng để bắt hết những kẻ cầm đầu và trừng trị chúng. Này Satt! Ngươi tưởng ta không biết những tên đó hay sao? Nhưng ta muốn ngươi chính tay đưa ra danh sách để chứng minh ngươi trung thành với ta.”
Satt nhìn tái mét, ngập ngừng: – Thưa Pharaoh, nếu ngài trừng trị những người này, tôi lo sẽ gây ra nhiều xáo trộn, bất lợi hơn nữa. Chúng ta không thể làm như vậy.
Tôi lạnh nhạt nói một cách cứng nhắc.
Vậy là bạn đã biết những người đó là ai rồi! Satt im lặng sợ hãi.
Tôi lên tiếng: – Sao ngươi biết về những kẻ đó mà không báo cáo? Satt cúi đầu và nói: – Hiện tại, việc ngừng xây dựng đã gây ra sự bất mãn trong dân chúng. Khi ngân quỹ thiếu hụt, chúng ta cần tăng thuế và đánh chiếm các nước khác để lấy tài nguyên. Tôi tin rằng các tướng lĩnh đều mong chờ cơ hội này.
Tôi hét lên: – Ta có thể tăng thuế bất cứ lúc nào, nhưng hiện tại ta muốn trừng phạt những kẻ lạm dụng nguồn lực công quỹ. Ta muốn ông cung cấp danh sách những tội phạm đó để ta xét xử, nếu không, ta sẽ ngay lập tức áp dụng biện pháp mạnh với ông.
Nói xong, tôi lặng lẽ đi vào trong cung.
Ngay khi tôi bước vào, kẻ hầu đã thông báo rằng hoàng hậu Nedjem muốn mời tôi đến phòng riêng vì có khách đến thăm. Tôi ngay lập tức đoán biết đó là ai. Giống như lần trước, tôi đứng sau tấm màn để quan sát Nedjem và Cihone trò chuyện. Lần này, Cihone tỏ ra tự tin hơn trong cuộc trò chuyện với Nedjem.
Tôi nghe Nedjem hỏi: – Ta được biết ngươi vẫn có khả năng điều trị cho trẻ nhỏ nữa.
Ngạc nhiên vì ngươi có nhiều tài năng đến vậy. Ngươi học những điều này ở đâu vậy? Cihone lắc đầu: – Tôi không được ai chỉ dạy gì cả. Tôi chỉ biết yêu thương những đứa trẻ thôi.
Nedjem cười lớn: – Ngươi không cần phải khiêm tốn như vậy. Cha của ngươi là một bác sĩ nhưng không thể chữa trị được, nhưng khi giao phó những đứa trẻ cho ngươi chăm sóc thì mọi bệnh tật đều được khỏi. Chắc hẳn ngươi phải có một bí quyết gì đó chứ? Cihone lắc đầu: .
Không ai ép buộc tôi phải làm như vậy. Tôi chỉ biết về tình yêu và cảm nhận rằng khi được yêu thương, con người có thể trở nên mạnh mẽ, khỏe mạnh hơn và trẻ trung, và trẻ con cũng vậy.
Nedjem nghe kỹ, quan sát Cihone một lúc rồi hỏi: – Nếu hiện tại, có một người đàn ông yêu một người phụ nữ và muốn nàng thuộc về mình hoàn toàn, theo như ngươi nói, tình yêu đáp lại từ phía người phụ nữ đó sẽ làm người đàn ông trở nên mạnh mẽ hơn. Ngươi nghĩ sao về điều này? Cihone suy nghĩ một lúc, sau đó trả lời: – Thưa Hoàng hậu, tôi không biết đó có phải là tình yêu thực sự hay không, hay chỉ là sự chiếm hữu – sự chiếm đoạt sẽ mang đến đau khổ. Tình yêu phải đến từ cả hai phía, không thể gây đau khổ cho người khác được.
Câu nói của Cihone đã làm tôi bị sốc vì cho đến nay tôi chưa từng nghe ai nói một cách rõ ràng như vậy. Tôi ước ao trong lòng rằng sự tự nhiên của Cihone cũng sẽ tan biến như bọt nước. Nedjem cũng bị ngạc nhiên bởi câu trả lời, nhưng vẫn tiếp tục đặt câu hỏi: – Nếu một người phụ nữ hy sinh cho một người đàn ông khác mà người đàn ông đó không để ý đến cô ấy, liệu bạn có gọi đó là tình yêu không? Tôi bỗng nhận ra rằng Nedjem đang nói về tình huống của một người phụ nữ.
Hoàng hậu nghe Cihone nói: – Tình yêu thực sự không gây đau khổ, chỉ mang lại niềm vui. Nếu hy sinh dẫn đến sự chịu đựng và đau khổ, thì đó không phải là tình yêu chân thật.
Nedjem im lặng rồi thở dài: – Ngươi thật là một người lạ lùng, ta chưa bao giờ nghe ai nói như vậy hết. Nếu như thế, tình thương yêu là gì? Cihone đáp: – Tôi chỉ biết yêu thương vô điều kiện mà thôi.
Câu nói của Cihone khiến tôi liên tưởng đến tiếng nói không lời của mặt trời – “Ta là tình thương.” – Và bỗng hiểu rằng Ngài không đòi hỏi bất cứ điều gì vì Ngài chính là tình thương. Tôi suy nghĩ về điều đó.
Các giáo sĩ đòi hỏi, phẩm vật dâng cúng, đền đài nguy nga, ruộng vườn của gia đình giáo sĩ và thợ thuyền, nô lệ được đem đến phục vụ cho những người này.
Tôi đứng ở đó nhưng tâm trí xoay vòng với những ý nghĩ hỗn loạn.
Trong lúc suy nghĩ, tôi nghe Nedjem hỏi: – Vậy tình thương giữa vợ chồng thì như thế nào? Có thể thương yêu nhau như thế không? Cihone vô tình trả lời: – Nếu họ yêu thương chân thành, không bám víu hay đòi hỏi gì thì đó là tình thương thật sự. Nếu bám víu, lệ thuộc vào điều gì đó thì chỉ là sự hấp dẫn, vì nếu không gần nhau, không được đền đáp, họ sẽ đau khổ. Tình thương thật sự không dẫn đến đau khổ. Những người biết thương yêu nhau như thế, dù có xa cách thì tình yêu của họ không bao giờ thay đổi.
Nedjem kinh ngạc hỏi: – Những điều ngươi nói thật thú vị, nhưng ai đã dạy ngươi như vậy? Làm sao ngươi biết được những điều này? Cihone đáp: – Khi còn nhỏ, tôi nghe cha mẹ nuôi tôi nói về điều này, nhưng sau đó tôi cảm thấy đó là bản tính tự nhiên của tôi. Cha nuôi tôi được rèn dạy trong đền thờ Thái Dương, chuẩn bị trở thành giáo sĩ, nhưng do bất đồng ý kiến với giáo lý đền thờ, anh ấy đã chuyển sang làm y sĩ.
Nedjem tò mò: – Cha mẹ đã dạy gì cho con? Cihone thưa: – Cha nuôi tôi dạy rằng trong cuộc sống con người có hai động lực quan trọng: lòng tham và tình thương. Lòng tham khiến con người sử dụng mọi thứ, kể cả bạo lực, để đạt được những gì mình mong muốn.
Tình yêu không đòi hỏi, chỉ biết cho đi. Mẹ dạy tôi rằng cha mẹ không bao giờ yêu cầu con cái phải đền đáp những đau khổ của họ. Nhiệm vụ của cha mẹ là yêu thương con cái, đó là tất cả. Từ đó, tôi hiểu.
Mọi việc, dù lớn hay nhỏ, cần được tiếp cận với thái độ như vậy. Không nên mong muốn hay đòi hỏi sự đền đáp. Hãy là người cho đi, giúp đỡ người khác và yêu thương tất cả, dù có bị lừa dối nhiều lần. Đừng kể về những việc tốt đã làm, đừng nhắc đến những gì đã cho và đừng mong chờ sự trả ơn từ ai đó. Đừng cố gắng sở hữu những thứ không thuộc về mình – hãy sống vui vẻ và thanh thản như vậy, thì sẽ thực sự hạnh phúc.
Tôi đứng yên, lặng người nhưng tâm trí lại bị xao lạc. Một cảm giác lạ lùng tràn đến, khiến cơ thể tôi rung lên như bị một lực điện mạnh xuyên qua. Tất cả những câu hỏi, những điều tôi muốn biết đều được giải đáp một cách rõ ràng. Tại sao một người có thể yêu thương một cách tuyệt đối như vậy? Hình ảnh của Đấng Thái Dương hiện lên trong tâm trí tôi, và tiếng nói vô thanh vang lên: “Ta chính là Tình Thương”.
Có lẽ Cihone luôn yêu thương vì cô có một trái tim luôn hướng đến những điều cao cả, trong sáng và tuyệt vời như đấng Thái Dương. Cô không phải là một giáo sĩ và chưa từng đến các đền thờ, nhưng cô lại gần gũi hơn bao giờ hết với đấng Thái Dương. Vì cô là hiện thân của tình thương, một tình thương thuần khiết, vô điều kiện, tự nhiên hòa hợp với đất trời và vạn vật. Chính tình yêu thương đặc biệt này đã tạo ra những năng lượng và sức mạnh kỳ diệu, có khả năng hàn gắn và chữa lành những tổn thương, bệnh tật và có thể tác động và thay đổi nội tâm của con người.
Bất ngờ, tôi nghĩ về nhóm giáo sĩ với những yêu cầu áp đặt đang gây áp lực cho tôi. Tôi tự hỏi: “Họ đã có mưu đồ gì khi biết tôi quyết tâm thay đổi và ngăn chặn những thói quen tham lam và ác độc của họ? Họ hiểu gì về đấng Thái Dương? Họ hiểu gì về tình yêu thương? Có phải họ chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình dưới cái bộ áo tôn giáo và sẵn sàng sử dụng mọi thủ đoạn để duy trì sự ảnh hưởng và lợi ích của nhóm? Thực sự, họ chỉ tạo ra các nghi thức cúng lễ không có tác dụng hay kết quả gì, chỉ để cướp bóc tài sản và tiền bạc của dân chúng, giống như những kẻ cướp hợp pháp. Tại sao tôi lại phải bảo vệ họ?”
Mặc dù đã từ rất lâu rồi, nhưng giới giáo sĩ không bao giờ có quyền lực, tuy nhiên, họ lại là những thế lực ẩn sau mọi sự việc.
Pharaoh bị kích động để khởi chiến với các quốc gia lân cận nhằm chiếm lợi từ tài nguyên, của cải và nô lệ để phục vụ cho phe nhóm của họ. Họ xây dựng các đền thờ để làm nơi thể hiện quyền lực của phe nhóm này. Pharaoh, như tôi, chỉ là một quân cờ trên bàn cờ đã được sắp đặt trước bởi nhóm này. Và các bước đi của quân cờ cũng do họ quyết định – Nếu tôi đi ngược lại ý muốn của họ, họ sẽ làm gì với tôi? Cơn giận bất ngờ tràn lên, dòng máu hung dữ của dân tộc Kusk chảy mạnh trong tôi khiến tôi cắn chặt răng: “Không thể! Tôi không thể để cho bọn giáo sĩ này tiếp tục làm loạn như thế. Dù sao, tôi là Pharaoh, người có quyền sinh sát trong tay – tôi phải tận dụng cơ hội này để thay đổi vương quốc, thay đổi mọi thứ. Đã đến lúc tôi không thể trì hoãn nữa và phải chứng minh tôi là người có quyền lực nhất trong đất nước này và sẽ truyền cho họ một bài học”.
Trong đầu tôi, những ý nghĩ quyết đoán chạy nhanh như tia chớp, tôi quên đi sự hiện diện của Cihone và hoàng hậu Nedjem. Tôi nắm chặt thanh bảo kiếm và phát ra một tiếng thét vang lên khắp hoàng cung.
Một lực mạnh dội vào lồng ngực, khiến tôi choáng váng. Đầu óc quay cuồng, mắt nhắm lại… Khi tỉnh dậy, tôi phát hiện mình ngồi tựa lưng, người ướt đẫm mồ hôi. Hai tay nắm chặt vào thành chiếc ghế bành ở nhà ông Kris.
Tôi kinh ngạc ngồi dậy, vỗ mắt và nhìn thấy ông Kris ngồi đối diện, tôi lập tức hét lên: – Tại sao lại như vậy ông Kris? Tôi đang ở trong phòng và bây giờ tại sao lại ở đây? Tôi đã rời phòng này được bao lâu rồi? Ông Kris cười nhẹ và chu đáo đưa cho tôi một ly nước mát lạnh, tôi cảm thấy toàn thân nóng bừng, đầu óc mơ hồ với một cảm giác kỳ lạ.
Tôi nắm chặt cốc nước và uống hết một hơi, cảm nhận từng giọt nước tràn đến khắp cơ thể. Ông Kris lấy cốc từ tay tôi, đưa cho tôi một chiếc khăn và đợi tôi bình tĩnh trước khi ông nói:
Ông đã có cơ hội đặc biệt để trải qua một cuộc phiêu lưu đầy may mắn trong quá khứ của mình tại Ai Cập cách đây hàng trăm năm. Trải qua những trải nghiệm đó, ông đã học được những bài học quý giá về cuộc sống. Tuy nhiên, ông hiện đang trải qua những cảm xúc mạnh mẽ và sự rối loạn trong tâm trí, vì vậy tôi phải đưa ông trở về hiện tại để tránh nguy cơ tổn thương nghiêm trọng. Hiện tại, ông chưa thể tự kiểm soát hoặc điều chỉnh tâm trí khi chuyển đổi qua các ký ức tiềm thức với sự hỗ trợ của vũ trụ, do đó việc nhớ lại những trải nghiệm quá khứ có thể gây nguy hiểm cho ông.
Tôi cảm thấy như đã lấy lại sự bình tĩnh, tôi đặt nhiều câu hỏi, mắt tôi mở to như muốn ghi nhớ tất cả những gì đã xảy ra: – Nhưng tôi muốn biết điều gì đã xảy ra với tôi sau đó? Tình hình ở Ai Cập như thế nào? Mọi thứ vẫn còn dang dở ở đó.
Tôi đã làm gì với đám giáo sĩ? Hoàng hậu Nedjem và cô gái Cihone, họ đã đi đâu sau đó? Ông Kris nhìn tôi với ánh mắt nhăn nhó nói: – Đúng là tốt nếu ông vẫn nhớ đến Cihone. Đó là một tình yêu hiếm hoi của một vị Pharaoh cô độc. Trước khi trả lời câu hỏi của ông, tôi muốn nói về Ai Cập để ông có thể hiểu rõ hơn. Ai Cập trong thời cổ đại bao gồm nhiều bộ lạc sinh sống dọc theo sông Nile, một vùng đất màu mỡ do phù sa bồi đắp, thuận lợi cho nông nghiệp và cuộc sống bình yên. Ai Cập bị bao quanh bởi sa mạc khổng lồ, giao thông không thuận tiện, vì vậy không bị ảnh hưởng bởi nền văn minh Lưỡng Hà hay Babylon gần đó. Khi người Atlantis tìm nơi trú ẩn sau thảm họa hồng thủy, họ mang theo tôn giáo thờ Thái Dương và nhiều lĩnh vực khoa học như kiến trúc, toán học, y học, dược học, âm nhạc, triết học, v.V… Người Ai Cập tiếp xúc với nền văn minh này và trong thời gian ngắn, những bộ lạc nhỏ đã hợp nhất thành một quốc gia lớn, với một nền văn minh độc đáo so với các nền văn minh lân cận.
Vào thời điểm ban đầu, nền văn minh này đã nâng cao đời sống và trình độ văn hóa của người Ai Cập lên một tầm cao, như được thể hiện qua quan điểm của Cihone, một nhà y sĩ già. Tuy nhiên, do cuộc sống thoải mái trên mảnh đất này, được bồi đắp hàng năm bởi phù sa và có khả năng trồng trọt dễ dàng, đánh cá đầy đồng, nên nhiều người đã đến định cư tại đây.
Dần dần trở thành người lười biếng. Thế hệ sau không giữ được tinh hoa của nền văn minh xưa, dẫn đến sự thất truyền của nhiều môn khoa học. Ngoài ra, một số người Atlantis theo một tôn giáo khác, sử dụng tà thuật, bùa chú và tìm cách tiếp xúc với sinh vật vô hình, gây ra cuộc tranh chấp giữa hai nhóm này.
Khi nhóm này muốn tiêu diệt nhóm khác, không ai chịu nhường ai, gây ra tranh chấp tôn giáo làm cho cuộc sống ở Ai Cập không còn yên bình. Từ những xích mích nhỏ giữa cá nhân dẫn đến những cuộc xung đột lớn giữa các phe phái, sau đó hai bên sử dụng mọi kiến thức có sẵn để gây hại cho nhau. Khi tri thức của các lĩnh vực khoa học bị mất đi, các phe nhóm sử dụng ma thuật để chiếm ưu thế, các đền thờ trở thành nơi buôn bán linh vật thay vì truyền đạt kiến thức cao cấp. Các giáo sĩ biến nó thành một tôn giáo thờ thần quyền và mê tín. Nền văn minh khoa học được thay thế bằng những đền thờ to lớn với các giáo sĩ chỉ biết thực hiện các nghi lễ mà không hiểu rõ. Giới giáo sĩ và gia đình của họ trở thành tầng lớp thượng lưu với quyền lực mạnh mẽ, khiến dân chúng phải phục vụ và cung cấp cho họ. Sự phân biệt đẳng cấp từ thời kỳ Atlantis lại được khôi phục vì những người này chưa học được bài học mà họ cần phải học.
Khi tôn giáo thờ Thái Dương biến thành một tôn giáo tập trung vào quyền lực thần thánh và mê tín, xã hội Ai Cập cũng trải qua sự thay đổi. Với khát vọng mở rộng sự ảnh hưởng của tôn giáo, các giáo sĩ đã thúc đẩy các Pharaoh mở rộng lãnh thổ bằng cách xâm lăng các quốc gia khác.
Những triều đại Pharaoh như Ahmose, Thutmose, Amenhotep, Seti, Ramses đều là những vị vua hung ác luôn gây chiến với các quốc gia lân cận. Trong số tất cả các Pharaoh trong thời kỳ đó (1800 – 1400 trước Công nguyên), chỉ có Akhenaten là vị Pharaoh duy nhất có lòng hiếu hòa. Hầu hết các Pharaoh khác đều thích gây chiến, làm suy kiệt nhân lực và gây ra những tội ác đáng sợ. Ramses II, vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử, hơn 65 năm, đã tham gia chiến tranh khắp nơi, tàn sát dân chúng của các quốc gia lân cận. Ở phía Bắc, ông đánh bại người Hittite, đẩy họ lên vùng núi khô cằn tại Mitani, gây ra đói kém và dịch bệnh, làm giảm nửa dân số của quốc gia này. Do đó, dân Hittite suy yếu và bị người Assyria tiêu diệt. Ở phía Nam, Ramses chiếm đóng.
Ai Cập đã chiếm đoạt hầu hết các mỏ vàng của xứ Nubia, bắt hàng chục ngàn nô lệ để xây dựng lăng mộ cho mình và sau đó tấn công và phá hủy kinh đô của nước Kush. Trong những cuộc xâm lược này, nhiều dân lành vô tội đã mất mạng. Vì vậy, Ai Cập phải chịu trách nhiệm cho những hậu quả mà họ đã gây ra.
Pharaoh Ramses, vị vua vĩ đại của Ai Cập, được tôn vinh trong lịch sử ngày nay vì những đóng góp to lớn của ông trong việc mở rộng lãnh thổ, xây dựng các đền đài và lăng tẩm lộng lẫy, với hơn hai trăm phòng được khắc sâu vào vách núi.
Hầu hết các nhà viết sử chỉ tập trung vào công lao của những vị vua tàn bạo thông qua những thành tựu vĩ đại mà không đề cập đến hàng ngàn nô lệ đã hy sinh trong quá trình xây dựng các ngôi mộ này, cũng như hàng trăm ngàn người đã mất mạng trong những cuộc chiến với các quốc gia láng giềng. Đúng vì lòng tham muốn điên cuồng của các vị Pharaoh, người dân Ai Cập đã phải trả giá rất đắt.
Tôi không kiên nhẫn, tôi hỏi liên tục những điều tôi muốn biết ngay lập tức: – Vậy số phận của tôi – vị Pharaoh cô đơn sau đó đã như thế nào? Tôi có thể đánh bại bọn giáo sĩ tà giáo đó không? Hoàng hậu Nedjem thì sao? Còn nàng Cihone? Ông Kris nhìn tôi một cách tập trung, mỉm cười, và tiếp tục kể: – Ông không cô đơn, nhưng tính cách của ông không chấp nhận nên trở nên khác biệt, và vì vậy mà cô đơn. Trong cuộc sống ở Ai Cập, ông là một trong những vị Pharaoh cuối cùng của triều đại cổ đại Ai Cập. Ông trở thành Pharaoh khi Ai Cập đã suy thoái và kiệt quệ do những tranh chấp trong triều đình và hậu quả của việc xây dựng các lăng tẩm cho các vị Pharaoh trước đó. Và vào thời điểm đó, quyền lực của phe giáo sĩ đã rất mạnh mẽ, vì vậy ông không thể cai trị lâu dài.
Do thiếu vũ khí và không được chuẩn bị đầy đủ, quân lực Ai Cập đã thất bại trong cuộc xâm chiếm các nước lân cận vào mùa đông năm đó. Giới giáo sĩ đã nhận ra ý đồ của Pharaoh muốn tiêu diệt họ, vì vậy họ đã đổ tội cho Pharaoh vì đã ra lệnh ngừng xây dựng đền thờ và cúng dường cho thần linh. Dân chúng cũng không hài lòng vì không có việc làm, dẫn đến cuộc nổi loạn. Làm Pharaoh, ông không kịp giải quyết tất cả những vấn đề này và phải chịu trách nhiệm. Trước khi có thể đối phó với giới giáo sĩ và quân loạn, ông đã bị nhóm giáo sĩ đầu độc và qua đời. Ông được chôn cất trong lăng tẩm của mình.
Lúc đó chưa hoàn tất, hoàng hậu Nedjem đã phải bí mật chôn cất ông một cách vội vàng ở một nơi khác, nên không lâu sau ngôi mộ của ông bị kẻ trộm đến đào lấy kho báu. Phe giáo sĩ đã tận dụng cơ hội xã hội hỗn loạn để kiểm soát thành phố Thebes và khu vực giàu có ven sông Nile. Những thành viên trong gia đình hoàng tộc đã phải trốn về miền Nam gần biên giới Nubia, sau đó đưa con cháu lên ngôi Pharaoh để thành lập một triều đình tại đó, nhưng không ai đã làm được điều gì đáng kể.
Tôi bị sốc khi nghe về số phận bi thảm của mình. Tôi muốn hỏi thêm, nhưng ông Kris không cho tôi nói và tiếp tục kể: – Không lâu sau đó, Nubia xâm chiếm Ai Cập và vua Nubia tự xưng là Pharaoh. Do đó, lịch sử Ai Cập trở nên rối ren vì không ai có thể phân biệt được giữa Pharaoh Ai Cập và Pharaoh Nubia nữa.
Lúc đó, người Ai Cập phải phục vụ cho dân Nubia, một tộc người mà họ từ trước đến nay khinh thường và coi thường.
Sau đó, người Assyria từ phía Đông Bắc đã đánh đuổi phe giáo sĩ ở Thebes và triều đình vua chúa Pharaoh Nubia, chiếm đoạt toàn bộ Ai Cập và thành lập đế quốc Assyria. Dân Ai Cập buộc phải trả một khoản nợ vô cùng lớn và phục vụ người Assyria.
Sau đó, Ba Tư xâm lăng đế quốc Assyria, đặt Ai Cập dưới sự cai trị của họ, và một lần nữa dân Ai Cập phải chịu đựng thảm cảnh bị đô hộ. Tiếp theo, Hy Lạp dưới sự chỉ huy của Alexander Đại đế chiếm Ba Tư, đặt Ai Cập dưới sự đô hộ. Các tướng lĩnh Hy Lạp trở thành Pharaoh của Ai Cập. Khi đế quốc Hy Lạp suy vong, người La Mã chiếm Ai Cập và cai trị xứ này trong hàng trăm năm. Sau đó, người Ả Rập chiếm Ai Cập, xóa bỏ văn hóa của xứ này và sáp nhập nước này vào lãnh thổ Caliphate của họ. Gần đây hơn, các nước Pháp và Anh cũng chiếm Ai Cập và cai trị đến năm 1922 trước khi dân xứ này được tự trị một phần.
Ông Kris nhìn tôi và thở dài, vẫn còn bàng hoàng: – Bạn có nhận ra không? Trải qua hơn hai ngàn năm, người dân Ai Cập đã phải chịu sự xâm lăng và ách đô hộ. Hầu hết văn hóa, phong tục, chữ viết và văn chương của Ai Cập đã bị xoá sạch, chỉ còn lại một số ít kim tự tháp và lăng tẩm.
Nhằm nhắc nhở người dân Ai Cập về quá khứ vinh quang của họ, các Pharaoh đã để lại những di tích đáng kinh ngạc. Hiện tại, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về hậu quả của những cuộc chiến tranh mà các vị vua Ai Cập đã gây ra cho đất nước này.
Lúc đó, trong tâm trí tôi tràn đầy cảm xúc. Tôi đã học được một bài học về tình yêu thương tại Ai Cập. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa biết về số phận của nàng Cihone và hoàng hậu Nedjem sau đó. Ông vẫn chưa kể…
Ông Kris nhìn tôi với nụ cười đồng cảm: – Nếu ông đã yêu thương một cách chân thành, chắc chắn sẽ có duyên. Ông đã có mối quan hệ tinh thần sâu sắc với những người phụ nữ này, vì vậy chắc chắn sẽ gặp lại họ trong những kiếp sau.
*** Thomas đã chia sẻ với tôi về tình trạng Ai Cập thời cổ, cũng như sự lạm dụng quyền lực của tầng lớp giáo sĩ, họ đã lợi dụng lòng tin của dân chúng để tăng cường quyền lực và lợi ích cá nhân. Đối với các giáo sĩ, việc xây dựng các đền thờ lớn là một cách để củng cố niềm tin vào quyền lực thần thánh mà họ đại diện.
Lúc đó, các giáo sĩ đều có gia đình và được ban cho những đặc quyền đáng kể như đất đai từ triều đình, nô lệ và sự thưởng thức các vật phẩm được dâng cúng.
Trong giai đoạn cuối của triều đại Pharaoh Ai Cập, phe nhóm giáo sĩ đã trở thành một thế lực mạnh mẽ, chi phối mọi khía cạnh của xã hội, từ kinh tế đến thuế má, thậm chí quân đội. Họ đã thống trị hơn một nửa lãnh thổ Ai Cập, từ thành phố Thebes trên phía Bắc, trong một thời gian dài. Để tránh bị ảnh hưởng, con cháu của Pharaoh đã phải chạy trốn xuống miền Nam và thành lập một triều đình ở biên giới Nubia. Tuy nhiên, không lâu sau đó, họ đã bị người Nubia chinh phục.
Theo ông Thomas, việc xây dựng các đền thờ khắp nơi và tăng thuế để nuôi tầng lớp giáo sĩ đã khiến hàng trăm ngàn người chỉ hưởng thụ mà không làm gì, gây ra tình trạng tuyệt vọng và chán nản trong dân chúng. Điều này đã khiến Ai Cập trở thành miếng mồi ngon cho các nước như Assyria, Nubia và Ba Tư.
Ông Thomas cũng chia sẻ thêm rằng qua việc tiếp xúc với Cihone và Nedjem, ông đã học được bài học về tình yêu thương và sự hy sinh, đó là những bài học đã giúp ông rất nhiều trong cuộc sống sau này.
Tôi hỏi ông về việc chuyển kiếp thành loài sâu bọ qua sự tiết lộ của ông Kris. Ông trầm ngâm nói rằng ông không nhớ gì về việc này, nhưng tin rằng được làm người là một vinh dự to lớn và không dễ dàng có thể có thân xác con người, và nếu mất đi thì không dễ dàng trở lại. Ông nói nếu ý thức như vậy thì phải biết sống sao cho đúng với ý nghĩa của một con người.
Khi chúng tôi thảo luận về những trận chiến trong quá khứ của nhân loại, như trận chiến thành Troy, tôi đã hỏi ông Thomas về quan điểm của ông về chiến tranh. Ông cho biết rằng chiến tranh là một sức mạnh đáng sợ, gây ra sự tàn phá to lớn bởi vì nó làm mất mát sinh mạng, tài sản và phá hủy những nền văn hóa và giá trị tốt đẹp nhất của con người. Nguyên nhân của chiến tranh xuất phát từ lòng tham lam. Tham lam danh vọng, tham lam lợi ích, tham lam quyền lực và tham vọng muốn chiếm đoạt tất cả. Từ lòng tham này, sự căm hận và thù hận được sinh ra và nuôi dưỡng mầm mống của chiến tranh.
Mặc dù cuộc chiến thành Troy bắt nguồn từ việc Hoàng tử Paris của Troy bắt cóc Helen, vợ của Menelaus, vua xứ Sparta và đem về Troy, sau đó Menelaus kêu gọi đồng minh của mình đến quân vây Troy để đòi lại vợ, nhưng theo ông Thomas, đó chỉ là nguyên nhân câu chuyện được ghi lại trong thần thoại Hy Lạp qua ngòi bút của thi sĩ Homer. Nguyên nhân chính là các nước đồng minh của Sparta đã tận dụng cơ hội này để tấn công Troy vì Troy là một xứ giàu mạnh, nằm ở vị trí quan trọng, kiểm soát các tuyến đường biển chính của Hy Lạp đến các nước vùng Trung Á. Chiếm được thành Troy có nghĩa là kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, thương mại, giao thông của vùng Địa Trung Hải. Vì vậy, Agamemnon, Achilles, Odysseus và nhiều tướng lĩnh khác của Hy Lạp đều muốn chiếm đoạt vùng này. Trận chiến thành Troy kéo dài hơn mười năm, khiến nhiều binh sĩ cả hai bên thiệt mạng. Ngay sau khi trận chiến kết thúc, những người sống sót cũng phải trải qua nhiều khó khăn, trở ngại mới có thể trở về quê hương; nhưng khi về đến nơi, họ nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi, kể cả những người thân.
Thời gian trôi đi, không còn như ngày xưa. Đó là bi kịch của cuộc chiến thành Troy, một câu chuyện thần thoại Hy Lạp về thảm họa của cuộc chiến tranh.
Theo ông Thomas, để chấm dứt chiến tranh, chúng ta không nên phản đối hay chống lại nó. Bởi vì nếu chúng ta phản đối chiến tranh, thì trong lòng chúng ta lại nảy sinh một cuộc chiến khác. Khi chúng ta phản đối một người, một ý tưởng, hay một quan niệm, chúng ta đang khơi dậy một cuộc chiến khác trong tâm hồn của mình. Đó cũng là lý do tại sao trong lịch sử nhân loại, chiến tranh không bao giờ chấm dứt. Mỗi khi một cuộc chiến kết thúc, lại có một cuộc chiến mới nảy sinh, bởi lòng hận thù luôn hiện diện trong lòng mọi người. Nếu chúng ta nhìn lại các bài học lịch sử, chúng ta sẽ thấy rõ rằng nguyên nhân của các cuộc chiến là lòng tham, sự ích kỷ và hận thù. Chính những yếu tố này đã nuôi dưỡng những quan niệm, lý thuyết và mục đích sai lầm, dẫn đến xung đột giữa các phe nhóm đối lập. Khi có lòng thù oán và sân hận, chúng ta luôn sẵn sàng gây chiến. Biện pháp tốt nhất để chấm dứt chiến tranh là loại bỏ sự thù hận trong tâm hồn bằng cách phát triển tình thương và lòng từ bi.
Ông Thomas tiết lộ rằng, qua những trải nghiệm đa dạng trong nhiều kiếp sống, động lực quan trọng nhất đã hướng dẫn cuộc sống của ông chính là tình yêu thương. Nhờ tình yêu thương, ông đã vượt qua nhiều khó khăn và tiếp tục khám phá thêm về nó.
Sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với ông Kris về cuộc sống ở Ai Cập, tôi sắp trở về New York. Trước khi đi đến sân bay, tôi hỏi ông: – Hôm qua ông nói rằng cuộc sống của tôi ở Atlantis không phải là cuộc sống đầu tiên, vậy còn những cuộc sống khác mà tôi không nhớ? Ông Kris trả lời: – Ông đã trải qua nhiều cuộc sống trước đó. Hầu hết mọi người trên thế giới này đã trải qua nhiều cuộc sống mà không nhớ được. Vì không có ý thức rõ ràng về những gì họ đã làm hoặc học được trong những cuộc sống đó, nên họ vẫn bị lạc lối trong vòng luân hồi. Đôi khi làm người, đôi khi làm thú, đôi khi làm ma quỷ. Ông nên biết rằng cuộc sống của mọi người không chỉ mới bắt đầu vài ngàn năm trước.
Tôi bất ngờ: – Đời sống của con người trước đây như thế nào khi mà nền văn minh chỉ mới bắt đầu cách đây vài ngàn năm? Ông Kris giải thích: – Con người đã tồn tại trên trái đất từ rất lâu. Từ xa xưa đã có những nền văn minh đã biến mất khỏi bề mặt của hành tinh này. Các nhà khảo cổ cho rằng con người chỉ mới bắt đầu sống.
Trong khoảng hàng ngàn năm qua, nền văn minh đã phát triển một cách tinh tế, bắt đầu từ vùng Lưỡng Hà thuộc Iraq và Syria, vào khoảng năm 1000 trước Công nguyên. Tuy nhiên, không phải ai cũng công nhận rằng còn tồn tại những nền văn minh cổ xưa hơn.
Không lâu trước đây, một nhóm khảo cổ đã phát hiện một ngôi làng cổ ở ngoại ô sa mạc Gobi, phía Tây Bắc Tây Tạng. Ngôi làng này vẫn còn tồn tại các vật dụng làm bằng đá và hệ thống cống rãnh dẫn nước. Các nhà khảo cổ ước tính rằng ngôi làng này đã tồn tại từ khoảng mười ngàn năm trước Công nguyên.
Ít ai biết về nền văn minh này, vì vậy vẫn có nhiều tranh cãi. Theo quan niệm, nền văn minh thường bắt đầu từ những vùng gần sông hoặc biển. Việc có một nền văn minh nằm giữa sa mạc là không thể chấp nhận. Tuy nhiên, hàng ngàn năm trước, sa mạc Gobi và Tây Tạng thực sự là biển cả, không phải là núi non hay sa mạc. Các trận động đất đã đẩy lục địa Ấn lên phía Bắc, tạo ra dãy núi Hy Mã Lạp Sơn. Mặc dù các nhà địa chất đã chứng minh điều này, nhưng nhiều nhà khảo cổ vẫn cho rằng cái nôi của nền văn minh thế giới bắt đầu từ vùng Lưỡng Hà ở Trung Đông, sau đó lan ra khắp thế giới.
Tôi hỏi:. – Tại sao họ lại tin như thế? Ông Kris bật cười: – Vì thiên chấp của các nhà khảo cổ châu Âu cho rằng mọi sự đều phát sinh từ một nơi chốn duy nhất, rồi mới tỏa lan ra các nơi khác. Ít ai chấp nhận rằng đã có nhiều nền văn minh xuất hiện ở các nơi khác nhau trên thế giới. Điều này cũng giống với quan niệm cho rằng tổ tiên loài người thuộc giống vượn bắt nguồn từ châu Phi, rồi sinh con đẻ cái, và di cư đi khắp thế giới. Dĩ nhiên, khi khám phá ra thêm nhiều bằng chứng thì quan niệm này sẽ phải thay đổi .
Tôi nói: – Tôi có kiến thức về cuộc sống của mình tại Atlantis, nhưng ít ai tin rằng Atlantis thực sự tồn tại. Hầu hết mọi người cho rằng đó chỉ là một truyền thuyết được Plato phóng đại.
Ông Kris nở nụ cười:
Hiện tại chưa có ai tìm thấy bằng chứng về nền văn minh này, điều này dễ hiểu.- Trong khoa học hiện đại, cần có bằng chứng rõ ràng trước khi đưa ra kết luận.- Ông có thể có nhận định rõ rệt về các quy luật vũ trụ như luật Luân hồi và Nhân quả nhờ hiểu biết về các kiếp sống quá khứ.- Từ đó, ông có thể tiếp tục theo đuổi con đường đã từng trải qua trong nhiều kiếp trước.- Nhớ lại những ký ức này chỉ có lợi cho ông mà thôi.
Tôi hỏi thêm: – Hôm qua ông nói rằng tôi có khả năng hồi tưởng lại những ký ức tiền kiếp, nhưng hiện tại đã quên. Việc đó là thế nào? Ông Kris đáp ngay: – Đúng vậy, ông đã có khả năng đó từ kiếp trước nhưng biết rằng ông sẽ quên, nên ông yêu cầu tôi giúp. Do đó, chúng ta mới có cơ hội gặp lại nhau trong kiếp này.
Tôi tò mò hỏi: – Cái đó như thế nào? Ông có thể cho tôi biết không? Ông Kris mỉm cười và trả lời: – Bạn phải tự khám phá khi nhớ lại các kiếp sống trong quá khứ. Nếu tôi nói ra ngay bây giờ, sẽ không có lợi ích gì mà chỉ làm bạn bối rối thêm thôi.
Tôi bất ngờ khi nghe câu trả lời của ông Kris: – Vậy tôi phải làm gì để khôi phục lại khả năng đó? Ông Kris trả lời một cách nghiêm túc: – Bạn cần tu luyện công phu nội quán mà bạn đã từng rèn luyện trước đây.
Ông có ý định thảo luận về việc tập thiền phải không? Tôi muốn biết nơi nào và cách thức học thiền? – Hiện nay có rất nhiều địa điểm dạy thiền, nhưng tên gọi này đã bị lạm dụng và biến tướng nhiều. Có thể ông cũng đã nhận thấy, hầu hết các trung tâm dạy thiền ngày nay đều bị thương mại hóa bởi những người tự xưng là Thiền sư, Tổ sư, Đạo sư hay Thánh nhân. Họ chỉ dạy với mục đích trở nên nổi tiếng hoặc kiếm tiền mà thôi.
Nếu thế tôi phải làm gì? – Trước khi tiến xa hơn, chúng ta hãy tránh sử dụng từ “thiền” trong lúc này. “Thiền” là thuật ngữ của Phật giáo để chỉ phương pháp quán xét nội tâm. Các tôn giáo khác cũng có những phương pháp tương tự nhưng mục đích lại khác nhau. Ấn giáo tập trung vào việc hòa hợp Tiểu Ngã vào Đại Ngã. Thiên Chúa giáo, hay mặc niệm, tập trung vào việc quay về với Thượng Đế. Ngoài ra, còn có nhiều phương pháp khác của các pháp sư hay phù thủy nhằm luyện thần thông hoặc sai khiến vong linh. Vì vậy, khi bắt đầu, bạn cần cẩn thận và chỉ nên coi đó là một phương pháp tĩnh tâm để đầu óc yên lặng, không căng thẳng, để kiểm soát tư tưởng và cảm xúc trước khi tiến xa hơn.
Vậy tôi nên bắt đầu như thế nào? – Nếu bạn hiểu được tư tưởng và cảm xúc thường được biểu lộ qua một vài cử chỉ, thì một số tư thế cũng có thể tạo ra những trạng thái và cảm xúc tương ứng. Bằng cách áp dụng những tư thế này, cơ thể của bạn sẽ được điều hòa và bạn có thể đi xa hơn. Đa số người phương Tây có thân hình cứng nhắc và chưa quen ngồi xuống đất, vì vậy bạn có thể bắt đầu bằng cách ngồi trên ghế, giữ lưng thẳng, đặt hai bàn tay lên đầu gối một cách tự nhiên. Đặt hai chân khép lại. Vấn đề quan trọng là cảm thấy thoải mái, không cố gắng hoặc gò bó. Hãy giữ thẳng thân người, không cúi khòm xuống, để luồng sinh khí chạy đều trong cột sống.
Tôi hỏi thêm: – Tôi thấy mọi người tập thiền đều ngồi, vậy có sự khác biệt gì giữa việc ngồi trên ghế và ngồi dưới đất không? Ông Kris kiên nhẫn trả lời: – Khi mới tập, tư thế không quan trọng cho đến khi bạn có thể kiểm soát được cơ thể. Tất nhiên, bạn có thể ngồi theo các tư thế như bán già hay kiết già. Đối với người Á Đông, ngồi xếp bằng là một động tác tự nhiên nhưng không phổ biến ở phương Tây.
Nếu buộc phải ngồi theo một tư thế cố định ngay từ khi mới tập, điều đó sẽ gây ra những khó khăn không cần thiết. Bạn nên nhớ rằng chỉ khi cơ thể thoải mái, bạn mới có thể điều chỉnh hơi thở một cách tốt nhất.
Cách tự nhiên, khi đã làm chủ được hơi thở, bạn có thể thay đổi tư thế ngồi để cảm thấy vững vàng. Khi mới tập, mọi người thường cảm thấy đau chân, đau tay vì chưa quen ngồi. Vì vậy, tôi khuyên bạn nên bắt đầu từ từ, không vội vàng, không hấp tấp.
Angie đã được hướng dẫn ngồi thiền trong khoảng mười lăm phút trước khi bắt đầu thực hiện các động tác hoặc tư thế Yoga.
Ông Kris cười: – Một số nơi dạy Yoga thường thêm vào một số yếu tố khác như thiền hay khí công để tạo vẻ huyền bí. Nhưng ông nên nhớ rằng các tư thế ban đầu chỉ giúp ông thở nhẹ và sâu. Khi cơ thể thoải mái và điều hòa, hơi thở mới có thể trở nên sâu và nhịp nhàng. Nếu tiếp tục như vậy, hơi thở sẽ dần trở nên êm nhẹ và lắng sâu.
Ông Kris lên tiếng mạnh mẽ: – Người mới tập nên thở sâu, đẩy hơi xuống bụng như ca sĩ luyện giọng. Nhưng điều này rất nguy hiểm vì chúng ta chỉ quan tâm đến hơi thở mà quên rằng tĩnh tâm là để đầu óc thư giãn, không phải làm cho phổi và tim hoạt động không bình thường. Nhiều người tập thở mà quên rằng đây là việc kiểm soát tư tưởng, không phải môn thể thao. Có người dạy thở vào các huyệt đạo, theo hệ thống kinh lạc trong cơ thể để đạt được mục tiêu nào đó. Điều này rất nguy hiểm vì có thể gây rối loạn thần kinh. Nhiều người được dạy nhìn lên cao và giữ mắt trong tư thế đó để tạo ra trạng thái mê hoặc và kích hoạt các hiện tượng kỳ lạ hoặc bị các linh hồn điều khiển. Điều này cần tránh tuyệt đối vì tĩnh tâm là để đầu óc thư giãn, loại bỏ những suy nghĩ không cần thiết, không phải để đạt được mục tiêu gì cả.
Phương pháp tĩnh tâm giúp cơ thể và tâm trí thư giãn trước khi bắt đầu tập trung tư duy để đạt được sự sáng tạo. Nếu quan tâm đến các tư thế và cảm thấy đau chân, mỏi tay, làm sao có thể kiểm soát được tư duy? Việc luyện tập không nên vội vàng, hấp tấp mà phải được thực hiện một cách cẩn thận.
Để mọi sự diễn ra một cách tự nhiên, hãy nhớ rằng tĩnh tâm là việc phát triển trí tuệ, đạo đức và tâm linh để kiểm soát suy nghĩ và cảm xúc. Điều này không phải là việc phát triển khả năng siêu nhiên để đạt được mục tiêu nào đó. Đừng nhầm lẫn tĩnh tâm với việc tu luyện một phép thuật hay mong muốn đạt được điều gì đó. Ban đầu, nỗ lực chỉ để tạo ra một thói quen tích cực nhằm đạt được sự yên tĩnh, loại bỏ những suy nghĩ hỗn loạn trong tâm trí. Khi những suy nghĩ hỗn loạn đã được loại bỏ và tâm trí được an lạc, mọi thứ sẽ thay đổi.
Việc quan trọng nhất là duy trì thời gian tập luyện. Sau khi chọn một thời điểm cụ thể để tĩnh tâm, hãy tuân thủ nó để phát triển thói quen. Nếu không, sẽ khó tiến xa hơn. Tôi khuyên bạn nên tập vào buổi sáng sớm, khi mặt trời mới mọc, vì lúc này, các luồng năng lượng từ thiên nhiên rất mạnh mẽ. Hãy tránh tập sau khi ăn hoặc vào buổi tối muộn, vì có thể gây ảnh hưởng không tốt. Bạn có thể bắt đầu với khoảng 15 phút và dần tăng lên 30 phút, sau đó có thể tăng lên 45 phút hoặc hơn nữa.
Khi tập luyện quá lâu, cơ thể mệt mỏi và căng thẳng, bạn có thể đứng dậy và đi bộ thong thả trong khoảng 15 phút để làm cho cơ thể trở lại trạng thái cân bằng.
Khi đã tập luyện một thời gian, khi cơ thể hoàn toàn thoải mái, hơi thở được điều chỉnh êm dịu, hãy để tâm trí tập trung vào một điều tốt đẹp để tránh tư tưởng bị phân tâm bởi công việc hàng ngày. Điều này không dễ dàng vì tâm trí của bạn đã quen suy nghĩ về mọi thứ.
Ông Kris kết luận rằng, phương pháp tĩnh tâm này đòi hỏi một sự nỗ lực, không phải là một cảm giác mơ màng, nửa mê nửa tỉnh. Ông có thể tưởng tượng người thực tập phương pháp này như con hải âu bay trên biển. Con hải âu mở rộng đôi cánh, lướt trên mặt nước theo làn gió. Bề ngoài có vẻ bất động, nhưng thực tế nó phải cố gắng rất nhiều để đối mặt với những luồng gió mạnh, phải luôn điều chỉnh đôi cánh theo sự thay đổi của gió. Do đó, nó ý thức từng giây từng phút để tránh bị gió thổi bay xuống biển.
Sau khi trở về New York, tôi tiếp tục công việc hàng ngày nhưng đã dành ra nửa giờ mỗi buổi sáng để thực hiện thực tập tĩnh tâm theo phương pháp mà ông Kris đã dạy. Điều này khiến Angie ngạc nhiên vì trước đây tôi chỉ thường đọc báo hoặc xem tin tức vào buổi sáng.
Trước đây, anh thường chế nhạo việc em và Connie đi tập Yoga, nhưng hiện tại anh lại dành thời gian ngồi yên như đang tập thiền. Tôi không muốn giải thích hay bào chữa, chỉ đơn giản là dạo gần đây đầu óc anh căng thẳng nên anh muốn ngồi yên tĩnh một chút trước khi đi làm.
Một ngày nọ, trong lúc tôi đang làm việc, Angie bước vào phòng mang theo một tờ quảng cáo về một buổi diễn thuyết. Cô ấy nói: “Hôm trước, Connie và tôi đã đi xem triển lãm về Ai Cập ở viện bảo tàng và thấy tờ quảng cáo này, nên tôi đã mang về. Anh có muốn đi nghe cùng tôi không?” Tôi lướt qua tờ quảng cáo và nhận ra đó là buổi diễn thuyết của một giáo sư đại học nghiên cứu về các nền văn minh cổ xưa. Cảm giác hứng thú bất ngờ trỗi dậy, tôi gật đầu và nói: “Ừ, chúng ta hãy thử đi nghe xem người này nói gì.”
Buổi diễn thuyết được tổ chức tại Đại học New York, diễn giả là một giáo sư chưa được biết đến rộng rãi nhưng đã có nhiều đóng góp đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu. Khán giả không quá đông đúc, chủ yếu là sinh viên tham gia để viết báo cáo cho môn học của họ. Tôi đi cùng với Angie và cặp vợ chồng Andrew.
Diễn giả bắt đầu nghiên cứu về các nền văn minh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ông cho biết rằng trong các tài liệu cổ, tài liệu của người Do Thái được coi là đầy đủ nhất. Các kinh sách Do Thái thường đề cập đến sự giao ước giữa con người và Thượng Đế thông qua các giới luật căn bản được ghi rõ trong bộ giáo luật Torah và trong kinh Cựu Ước. Ngoài ra, người Do Thái còn có quan niệm trừu tượng về sự lưu đày và việc trở về miền đất hứa. Họ tin rằng đây là một sự kiện lịch sử. Trước đây, dân Do Thái đã bị bắt làm nô lệ tại Ai Cập nhưng sau đó đã được giải phóng.
Khi rời xa Ai Cập, họ đã vi phạm sự thỏa thuận với Thượng Đế, và bị trừng phạt bằng việc phải lang thang khắp nơi, không có quê hương và không thể trở về miền đất hứa.
Gần đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện một tài liệu ở vùng Biển Chết, giải thích rằng sự lưu đày chỉ là một ẩn dụ, ám chỉ việc mất ý thức về nguồn gốc thiêng liêng, một sự sa đọa về tâm linh của con người nói chung. Sự trở về miền đất hứa chỉ là biểu tượng cho việc quay về để hiểu rõ bản thân, để nhận thức về nguồn gốc thiêng liêng, cao quý mà chúng ta đã có từ trước. Sự ký kết với Thượng Đế chỉ đơn giản là sự phát triển tiềm năng hiểu biết để sống hòa hợp với những quy luật tự nhiên. Điều này đã làm đảo lộn quan niệm đã tồn tại từ hàng ngàn năm và gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trong giới học giả Do Thái.
Một số học giả không công nhận tài liệu này vì như vậy là phủ nhận “miền đất hứa”, một vùng đất mà Thượng Đế đã ban cho dân Do Thái. Họ cho rằng dân Do Thái là một giống dân được Thượng Đế chọn lựa và ban cho một vùng đất làm quê hương. Dù người Do Thái đã lang thang khắp nơi trên thế giới trong hàng ngàn năm, họ vẫn luôn hướng về “miền đất hứa” của mình. Việc đưa ra tài liệu khảo cổ với quan niệm mới này, dù được viết bởi giáo sĩ Do Thái thời cổ, là điều không thể chấp nhận được.
Có một số học giả cho rằng tài liệu của giáo sĩ Do Thái, viết từ hàng ngàn năm trước, giải thích ý nghĩa ẩn của huyền môn Kabbalah, là một khám phá quan trọng và người Do Thái không thể từ chối giá trị của một văn kiện như vậy.
Kabbalah, the mystical book, was recorded by the prophet Moses in a symbolic language with many hidden meanings. Throughout history, prophets and spiritual leaders have often used a secret language, metaphors, and ambiguous phrases to describe future events that they could not explicitly predict.
Theo Kinh Talmud, chân lý không phải là điều để nói ra, mà chỉ có thể hiểu được thông qua sự tu tập công phu. Vì vậy, các đạo gia thời cổ chỉ truyền đạt kiến thức cho học trò bằng phương pháp truyền miệng, không viết ra. Nếu phải viết ra, họ sử dụng ám tự, ẩn nghĩa và lựa chọn học trò rất cẩn thận.
Nhiều thử nghiệm để đảm bảo học sinh có thể hiểu những ý nghĩa ẩn này.
Moses Ben Maimon (Maimonides), một nhà thần học nổi tiếng và có uy tín về luật pháp Torah của Do Thái giáo, đã viết rằng: “Sự nhận thức về bản thân là quy luật cơ bản của mọi truyền thống tâm linh, vì biết về chính mình có nghĩa là biết về nguồn gốc thiêng liêng của mình”. Mục tiêu của mọi truyền thống tâm linh cổ xưa là giúp con người tự nhận thức về bản thân. Tuy nhiên, ngày nay, mục tiêu này đã thay đổi để nhắm vào một đối tượng xa lạ, một thứ mà con người không thể hiểu biết. Điều tồi tệ hơn là truyền thống tâm linh ngày nay tập trung quá nhiều vào các hiện tượng ngoại giới. Do đó, các giải pháp, quan niệm và lý luận của truyền thống tâm linh hiện đại không thể mang lại hạnh phúc cho con người vì chúng đã sai lầm từ đầu.
Các nghiên cứu khảo cổ gần đây đã khám phá được nhiều tài liệu chứng minh rằng từ xa xưa, những người cổ đại đã sở hữu kiến thức đa dạng về nhiều lĩnh vực, từ thiên văn học đến địa lý, từ toán học đến siêu hình học, từ hóa học đến y học. Họ gọi kiến thức này là huyền học và không chia thành nhiều môn riêng biệt như hiện nay. Trong những căn phòng ẩn sâu trong các đền thờ tráng lệ hoặc trong những hang động tự nhiên ở rừng núi hoang vu, các nhà sư thời cổ đã nghiên cứu, học hỏi và áp dụng những sức mạnh siêu nhiên vào những việc mà ngày nay, trong thời đại khoa học thực nghiệm phát triển mạnh mẽ, được coi là không thể hay kỳ diệu.
Thật là một sự xúc phạm đối với những người xưa, khi những nhà khoa học trẻ tuổi của thế kỷ này dám chỉ trích những người tiền bối của họ là những pháp sư ngu dốt. Nói như vậy không khác gì hàng ngàn năm qua, con người chỉ toàn là những người ngu dốt, ngây thơ và mê tín, cho đến đầu thế kỷ hai mươi này mới trở nên thông thái. Nếu nhìn vào lịch sử, có quốc gia nào trong quá khứ không có những anh hùng, những nhân vật vĩ đại đã đóng góp vào sự phát triển văn minh của đất nước họ? Có giai đoạn nào trong quá khứ mà các nhà sư, học giả của họ không đưa văn hóa của mình lên đỉnh cao, rực rỡ? Tại sao ngày nay mọi người lại cố tình quên đi lịch sử, quên đi những công trình của họ?
Tiền nhân đã vùi dập những điều tốt đẹp của quá khứ dưới danh nghĩa tiến bộ khoa học. Đáng tiếc là ngày nay các nhà khoa học lại chia cắt kiến thức của cổ nhân thành những mảnh vụn rời rạc. Họ không thể có một cái nhìn bao quát mà chỉ biết về những mẩu rất nhỏ. Tuy vậy, họ lại tự hào là mình thông minh.
Nếu xem xét kỹ quá trình lịch sử, ta có thể thấy nhiều điểm tương đồng giữa các nền văn minh cổ xưa từ Đông qua Tây. Ví dụ, hai tài liệu rất cổ vẫn còn được lưu truyền ngày nay là bộ luật Manu và pho kinh Veda của người Ấn, trong đó người xưa ghi chép rất công phu các nghi thức tế lễ và cầu nguyện. Nếu xem xét kỹ, ta sẽ thấy những nghi thức này không khác gì những nghi thức được tìm thấy trong thánh kinh Talmud của Do Thái giáo hay nghi thức của nền tôn giáo cổ được ghi lại trên các thạch trụ ở Babylon. Nếu nghiên cứu kỹ hơn nữa, ta lại thấy chúng cũng không khác các nghi thức tôn giáo của Ai Cập, Tây Tạng, hay Trung Hoa bao nhiêu. Tại sao lại có sự trùng hợp như vậy? Tại sao những nền văn minh ở cách nhau rất xa trên phương diện địa lý và thời gian lại có những nghi thức tế lễ, cầu nguyện tương tự như vậy? Có thể từ ngàn xưa đã có sự liên lạc, giao thiệp giữa những người của các quốc gia đó. Hoặc tất cả đều chịu ảnh hưởng bởi một nguồn gốc chung, bởi một nền văn minh mang tính toàn cầu vượt ra khỏi sự hiểu biết của con người ngày nay. Có thể các đạo gia ngày xưa đã sở hữu những kiến thức siêu việt qua công phu tu tập mà ngày nay không mấy ai còn biết đến. Nhờ sở đắc những kiến thức này, họ nhận ra rằng trên một bình diện tâm thức cao hơn bình diện của người thường, không có sự khác biệt, không có sự phân biệt, chân lý hay các quy luật tự nhiên của vũ trụ là bất biến, dù ở đâu hay trong thời gian nào.
Hiện nay, có nhiều người cho rằng huyền học là một truyền thống của người phương Đông. Tuy nhiên, điều này không chính xác vì ở phương Tây cũng có một quá khứ rực rỡ của huyền học. Ở Anh Quốc, các đạo gia Druid đã thực hiện các phép thuật huyền bí trong các hang động sâu thẳm của đất nước.
Stonehenge là nơi mà họ để lại nhiều di tích, bao gồm những cột trụ bằng đá, nhưng mục đích của chúng đã trở nên mơ hồ trong thời gian hiện tại. Họ cũng đã chạm trổ các hình kỷ hà trên các vách đá dọc theo bờ.
Biển Ái Nhĩ Lan đã được sử dụng như một cách nhắc nhở cho nhân loại, nhưng ngày nay không ai hiểu rõ ý nghĩa của nó. Lịch sử Anh Quốc đã ghi nhận sự lãnh đạo thông minh của các nhà lãnh đạo thuộc chủng tộc Celtic thông qua những câu chuyện huy hoàng, nhưng hiện tại ít ai hiểu hết ý nghĩa sâu xa của chúng. Các thuật sĩ Semathe của xứ Gaul (nước Pháp ngày nay) đã để lại nhiều tài liệu về toán học, vật lý học và vũ trụ học, khiến các nhà nghiên cứu ngạc nhiên trước kiến thức về vận hành của các hành tinh và sự hình thành của Trái Đất. Trong các khu rừng ở Trung Âu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tài liệu bí mật ghi chép về các cuộc họp, thảo luận và trao đổi kiến thức của các nhà thông thái này. Những tài liệu này cung cấp thông tin chính xác về nguồn gốc và quá trình tiến hóa của loài người, mặc dù chúng đã được viết từ hàng ngàn năm trước đây.
Tóm lại, từ xa xưa, đã tồn tại những nền văn minh cổ với kiến thức sâu rộng, nhưng vì lý do nào đó, chúng đã biến mất khỏi bề mặt trái đất, chỉ còn lại một số mảnh vụn mà ngày nay nhiều nhà khoa học đã bỏ qua. Không ai biết chính xác con người xuất hiện trên trái đất từ bao giờ và đã học hỏi, nghiên cứu những điều gì. Các tài liệu hiện đại cho rằng con người chỉ mới xuất hiện vài chục ngàn năm trước, nhưng lúc đó sống như loài vật, chỉ biết hái lượm, sau đó chuyển sang săn bắn và trồng trọt. Cho đến gần đây, con người mới khám phá khoa học và trở thành một nền văn minh tiến bộ. Tuy nhiên, lý luận này có hợp lý không? Điều này cần được xem xét lại.
Diễn giả dừng lại để mọi người suy nghĩ, sau đó tiếp tục: – Hiện nay, hầu hết mọi người cho rằng nền văn minh của nhân loại bắt đầu từ vùng Lưỡng Hà và lan rộng khắp nơi. Có nhiều sử gia cho rằng sự truyền bá nền văn minh này đi kèm với sự phát triển tôn giáo của người Ba Tư vào thời điểm đó, được gọi là Hỏa giáo. Zoroaster, còn được biết đến với tên Zarathustra, đã sáng lập một phái huyền học được gọi là Magi, tuy nhiên, đa số các nhà khảo cổ không đồng ý với quan điểm của các sử gia. Họ cho rằng Zoroaster chỉ là một nhà cải cách, đã thay đổi hệ thống huyền học cổ xưa thành một hệ thống khoa học.
Có những nhà khảo cổ cho rằng nền văn minh của con người bắt nguồn từ Ai Cập và sau đó lan truyền vào Ba Tư, kết hợp với nền văn minh địa phương.
Lúc đó, Lưỡng Hà đã trở thành một nền văn minh mới và lan rộng qua các quốc gia khác. Tổng kết lại, theo quan điểm này, có hai nền văn minh khác nhau đã được hòa nhập với nhau thông qua các sự kiện lịch sử và thời gian, và sau đó ảnh hưởng đến các vùng khác.
Câu hỏi cần đặt ra là liệu có chỉ có hai nền văn minh hay còn nhiều nền văn minh khác nữa, có xuất phát từ nhiều nơi khác nhau và có ảnh hưởng lẫn nhau không? Những nhà khảo cổ đã tìm hiểu về những nền văn minh ở Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng chưa? Những nền văn minh này có liên quan gì đến nền văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập không? Có thể đã đến lúc phải xem xét lại xem lý thuyết “chỉ có một nguồn gốc duy nhất, rồi tỏa lan đi khắp nơi” còn chính xác hay không.
Ông lý luận rằng, hầu hết các nghiên cứu về các nền văn minh cổ hiện nay chỉ tập trung vào việc xây dựng công trình, sản phẩm và vật dụng để đánh giá giá trị của nền văn minh. Tuy nhiên, ông cho rằng điều này là một thiếu sót lớn vì không phải tất cả các nền văn minh đều quan tâm đến việc xây dựng lăng mộ. Có những nền văn minh cổ xưa đã tiến bộ trong lĩnh vực tinh thần và hiểu biết về các quy luật của vũ trụ. Họ không quan tâm đến việc xây dựng công trình và không để lại sản phẩm vật chất, nhưng lại để lại một nền tảng triết học sâu sắc, một truyền thống tâm linh cao cả thông qua sách vở, câu chuyện truyền khẩu và các bài thơ với những lời lẽ sâu sắc và ẩn chứa ý nghĩa. Theo ông, các nền văn minh Ấn Độ, Tây Tạng và Trung Hoa thuộc loại này.
Hiện nay, có rất nhiều nhà khoa học, nhà lịch sử và nhà khảo cổ, đa số đến từ phương Tây, vẫn chưa chấp nhận rằng có nhiều nền văn minh xuất hiện vào các thời điểm khác nhau và có những hiểu biết khác nhau. Họ từ chối những đóng góp từ châu Á do lòng tự tôn của khoa học phương Tây. Vì vậy, việc cho rằng tất cả mọi thứ đều bắt nguồn từ một nơi duy nhất như Lưỡng Hà là một quan điểm cố hữu không hợp lý, có tính kỳ thị và phủ nhận sự thật.
Ông đi đến kết luận:
Sau khi nghiên cứu nhiều nền văn minh trên thế giới từ Đông sang Tây, tôi nhận thấy không thể khẳng định chỉ có một nền văn minh duy nhất bắt nguồn từ Trung Đông. Dù có Lưỡng Hà hay Ai Cập lan truyền khắp nơi, ta không thể bỏ qua những nền văn minh cổ khác như Ấn Độ, Tây Tạng hay Trung Hoa. Có thể còn tồn tại những nền văn minh khác, cổ xưa hơn mà chúng ta chưa khám phá hoặc biết đến.
Sau buổi diễn thuyết, tôi hỏi Andrew và Connie về ý kiến của họ về buổi diễn thuyết này. Connie nhanh chóng trả lời rằng diễn giả nói rất hay và bài diễn thuyết cũng rất có giá trị. Với tư cách là một nhà nghiên cứu, ông ấy chắc chắn còn biết nhiều điều hơn nữa, nhưng do hạn chế về thời gian nên ông ấy chỉ nói ngắn gọn như vậy thôi.
Andrew nói: – Đề tài này rất phức tạp, không thể nói rõ từng chi tiết. Ngoài ra, đây chỉ là buổi diễn thuyết dành cho sinh viên và khách tham quan bảo tàng thôi.
Sau khi chúng tôi ra khỏi giảng đường, chúng tôi ngay lập tức gặp giáo sư Morris, người là viện trưởng phân khoa khảo cổ tại Đại học New York. Ông Morris đã đến thăm chúng tôi để hỏi thăm, vì ông biết rằng tôi là chủ một công ty lớn và hàng năm tài trợ cho trường đại học này.
Ông Morris nói vui vẻ: – Thật ngạc nhiên và vui mừng khi gặp ông. Tôi không ngờ ông lại quan tâm đến những nền văn minh cổ như thế này? Tôi cũng trả lời: – Đôi khi chúng tôi cũng thường đi nghe nhạc và tham dự các buổi diễn thuyết quan trọng tại Đại học New York. Đề tài hôm nay rất thú vị và có giá trị. Tôi hoàn toàn đồng ý với những nghiên cứu của diễn giả.
Giáo sư Morris bất ngờ: – Thật sao? Đề tài này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi sôi nổi trong cộng đồng nghiên cứu. Giáo sư Baader, mặc dù còn trẻ nhưng đã có nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu. Hãy để tôi giới thiệu anh ta đến gặp ông.
Các công trình nghiên cứu của các trường đại học ở Hoa Kỳ thường được tài trợ bởi các công ty tư nhân hoặc hiệp hội. Tôi biết ý của giáo sư Morris là muốn giới thiệu vị giáo sư trẻ này với tôi, có thể công ty của tôi sẽ tài trợ cho công trình nghiên cứu của anh ta. Tôi mỉm cười và rút tấm danh thiếp đưa cho giáo sư Morris. Tôi nói: “Vâng, xin ông cho giáo sư Baader biết rằng tôi rất quan tâm đến công trình nghiên cứu này và nếu cần, giáo sư Baader có thể đến gặp tôi.”
Sau vài ngày, giáo sư Baader liên lạc và hẹn gặp tôi tại văn phòng làm việc. Buổi gặp diễn ra trong không khí thân mật. Tôi không chần chừ và ngay lập tức hỏi giáo sư về các nền văn minh cổ đại.
Tôi rất quan tâm tới chủ đề này.
Giáo sư Baader đã bắt đầu nghiên cứu từ rất lâu và đã đi khắp nơi để khám phá những di tích cổ, từ đền đài Ai Cập đến chùa tháp Tây Tạng, từ các lâu đài ở châu Âu đến lăng mộ vua chúa ở châu Á. Ông đã tiếp xúc với dân địa phương để lắng nghe những câu chuyện dân gian. Mặc dù có nhiều câu chuyện có tính chất huyền bí, nhưng một số trong số đó cũng rất quan trọng đối với nghiên cứu của ông.
Tôi hỏi:. – Theo sách vở ghi chép về các nền văn minh thế giới thì hầu hết kiến thức đều xuất phát từ Ai Cập, chuyện này là thế nào? Giáo sư Baader trả lời: – Đó là một sai lầm rất lớn. Nền văn minh Ai Cập có giá trị của nó, nhưng Ai Cập không phải là cái nôi khai sinh ra nền văn minh thế giới. Từ ngàn xưa, người Ai Cập đã có một truyền thống tâm linh rất cao, gắn liền với tôn giáo. Lúc đó, Ai Cập có một nền tôn giáo cổ tôn thờ thần Thái Dương Ra. Hầu hết các học giả ngày nay đều cho rằng tôn giáo Ai Cập là một thứ tôn giáo đa thần – dựa trên các văn bản, tài liệu, di tích trong các đền thờ. Nhưng theo tôi thì nền tôn giáo đa thần chỉ xuất hiện sau khi thời đại vàng son của nền tôn giáo cổ đã suy tàn .
Tôi tự hỏi: – Theo như ông nói thì khi xưa Ai Cập đã có hai nền tôn giáo khác nhau sao? Giáo sư Baader giải thích: – Đúng thế, theo tài liệu của sử gia Jean Champollion (1780 – 1832) thì các giáo sĩ thành Thebes muốn bành trướng thế lực của phe nhóm đã “đẻ ra” nhiều thần linh khác nhau để biến tôn giáo cao đẹp khi xưa thành một thứ giáo quyền tổ chức chặt chẽ với các hình thức thờ cúng, mê tín dị đoan, kiêm một số tà thuật, sử dụng bùa chú, phép thuật để mê hoặc nhân tâm .
Champollion đã chứng minh rằng từ thời xa xưa, người Ai Cập đã tôn thờ một vị thần duy nhất, được gọi là Thái Dương Ra, nhờ vào cuốn cổ thư của Thánh sư Thoth (còn được gọi là Hermes) đã ghi lại điều này. Thoth đã viết rằng chỉ có một vị thần duy nhất đã ban ánh sáng cho tất cả mọi sinh vật và tạo ra sự sống trên trái đất. Cuốn cổ thư của Thoth cũng ghi rõ: “Từ nơi ông mới có ánh sáng, và ánh sáng lan tỏa khắp mọi nơi để xua tan bóng tối. Từ đó, sự sống xuất hiện và tạo ra vạn vật. Nếu không có ông, không có sinh vật nào tồn tại. Vì không ai biết tên ông, người ta đã tạm thờ mặt trời và gọi ông là Thái Dương Ra”.
Thoth tôn vinh việc thờ phượng mặt trời như biểu tượng của đấng cao cả bởi vì Ngài không có hình dạng, không có danh hiệu. Thoth hiểu rằng không thể đặt tên cho một khái niệm trừu tượng như vậy cho mọi người, vì vậy Ngài đã đặt tên là Thái Dương Ra, người sáng tạo ra mọi thứ. Từ đó, tất cả các đền thờ, kim tự tháp, tượng thần đều được xây dựng hướng về phía Đông, nơi mặt trời mọc, nơi Ngài xuất hiện hàng ngày.
Lời dạy của Thoth được ghi trên thạch trụ của đền thờ Karnak: “Vầng Thái Dương xuất hiện từ phương Đông, nơi định hướng cho sự sống và luôn luôn tái diễn như ngày và đêm. Chỉ khi quay về phương Đông, con người mới thực sự hiểu mình. Hiểu mình là hiểu tất cả và tìm ra chân lý để sống đúng ý nghĩa thực sự của cuộc sống”.
Tôi có thể giúp gì cho bạn?
Ông đã nghiên cứu về nguyên nhân suy tàn của nền văn minh Ai Cập và cho biết có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này. Nguyên nhân đầu tiên là do các giáo sĩ không tu tập theo nguyên tắc của tôn giáo cổ. Họ không biết tự kiểm soát bản thân, không tuân thủ kỷ luật mà thay vào đó là lười biếng và ỷ lại, chỉ quan tâm đến việc hưởng thụ, dẫn đến sự mất đi của các tinh hoa trong tôn giáo. Ông cũng nhấn mạnh rằng hầu hết các truyền thống tâm linh đều được giữ gìn và tu tập bởi các giáo sĩ. Nếu những người này không tu học, không tuân thủ kỷ luật và không biết giữ gìn, thì tôn giáo sẽ suy tàn. Nguyên nhân chính dẫn đến sự suy tàn của tôn giáo cổ là do sự vô trách nhiệm của giới giáo sĩ. Vì lười biếng và không tuân thủ luật lệ, đa số giáo sĩ không có kiến thức tâm linh và hiểu biết đúng đắn. Để bù đắp cho sự thiếu sót này, một số người đã sử dụng tà thuật, bùa chú và phép thuật để mê hoặc nhân tâm trong các đền thờ, làm suy yếu tôn giáo cổ. Khi dân chúng không còn tin tưởng vào giáo sĩ lãnh đạo, và khi tà thuật gây suy đồi văn hóa và hỗn loạn xã hội, các Pharaoh đã giới hạn vai trò của giáo sĩ chỉ trong việc thờ cúng và tế lễ, không được tham gia vào các công việc khác. Điều này đã dẫn đến sự tranh giành quyền lực giữa các Pharaoh và giới giáo sĩ.
Nguyên nhân thứ hai là việc sử dụng ngôn ngữ. Từ xa xưa, người Ai Cập đã có một loại chữ viết phổ thông. Hầu hết các văn bản, tài liệu, giao dịch đều sử dụng loại chữ này. Tuy nhiên, các giáo sĩ lại sử dụng một loại chữ đặc biệt riêng gọi là chữ tượng hình trong tài liệu tôn giáo vì có những chi tiết ẩn mật, sâu kín, không thể diễn đạt bằng lời được. Đây là loại chữ đặc biệt dành cho những đạo đức nghiên cứu sâu sắc trao đổi với nhau. Ngày nay, người ta còn tìm thấy những chữ viết này trong cuốn Y Thư và Tử Thư. Vì đa số các giáo sĩ chuyển hướng theo tà giáo, không chịu tu học, nghiên cứu nữa nên các sách vở của nền tôn giáo cổ, viết bằng chữ tượng hình, dần dần trở nên quên lãng, theo thời gian không còn ai có thể đọc được nữa.
Có một nguyên nhân thứ ba khi các Pharaoh bị ảnh hưởng bởi tà giáo, họ sử dụng bùa chú và phép thuật để tiếp xúc với các sinh vật cõi âm.
Họ được hướng dẫn rằng nếu biết cách ướp xác và thực hiện một số nghi thức cúng lễ, họ sẽ có thể sống mãi và trở thành bất tử trong thế giới bên kia.
Vì vậy, họ đã xây dựng những ngôi mộ lớn để lưu giữ xác thân mà không biết rằng chúng trở thành nơi tác động đến thế giới bên kia. Họ tin rằng con người có thể trở nên bất tử, vì vậy việc xây dựng các ngôi mộ trở thành mục tiêu quan trọng của các vị vua Ai Cập. Theo thời gian, việc xây dựng ngôi mộ trở thành một nghề nghiệp chính với hàng ngàn thợ thuyền và nô lệ, làm kiệt quệ sức lực của quốc gia. Để có đủ tiền xây dựng những ngôi mộ hoành tráng, các vị Pharaoh đã xâm lăng các nước lân cận, chiếm đoạt tài nguyên, vàng bạc và nô lệ. Do đó, mỗi Pharaoh đều gây chiến, đàn áp các nước lân cận, gây ra sự oán hận khắp nơi.
Qua nhiều triều đại vua chúa, với những biến đổi thăng trầm, nền văn minh Ai Cập dần dần suy tàn. Nhân lực kiệt quệ vì công trình xây dựng, vua chúa chỉ mong muốn bất tử ở thế giới bên kia, quan lại tham nhũng làm suy thoái tài sản quốc gia, mọi người chỉ sống ích kỷ, xã hội rối loạn, dân chúng khổ cực. Ai Cập trở thành miếng mồi ngon cho các nước lân cận. Trải qua hàng ngàn năm, người dân Ai Cập phải sống dưới ách đô hộ của Nubia, Assyria, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Ottoman, và gần đây hơn là Anh và Pháp. Hậu quả là văn hóa Ai Cập hoàn toàn biến mất, ngay cả chữ viết bình dân cũng bị thất truyền, chỉ còn lại chữ tượng hình. Vì vậy, không ai còn biết về văn hóa, lịch sử hay các dòng chữ ghi khắc trong cổ mộ, hoặc trên thạch trụ trong các đền thờ. Hiện nay, phần lớn người dân Ai Cập không ai còn biết về nguồn gốc cao đẹp, văn hóa huy hoàng hay lịch sử oai hùng của mình, mà họ chỉ đồng hóa với văn hóa của xứ Ả Rập.
Trong lòng tôi tràn đầy nỗi buồn không thể diễn tả khi tôi im lặng lắng nghe. Những từ của giáo sư Baader trùng khớp với những trải nghiệm về tiền kiếp của tôi tại Ai Cập.
Giáo sư Baader tiếp tục nói:
Vào năm 1801, Hoàng đế Napoleon đưa quân đánh chiếm Ai Cập.
Một đoàn quân xây dựng một pháo đài dọc theo bờ sông Nile đã phát hiện ra một tấm bia đá có ba loại chữ khắc: chữ tượng hình (ám tự), chữ bình dân và chữ Hy Lạp. Đây là một lệnh từ các tu sĩ Memphis ca ngợi công đức của Pharaoh Ptolemy thứ năm.
Do nó được khắc bằng ba loại chữ khác nhau, các học giả người Âu đã sử dụng phương pháp này để dần dần khám phá ra bộ chữ tượng hình Ai Cập. Jean Champollion, một học giả và sử gia nổi tiếng của Pháp, đã được Hoàng đế Napoleon chỉ thị nghiên cứu bộ chữ này để hiểu rõ hơn về những ghi chú trên các tấm thạch trụ. Nhờ đó, ông đã tái tạo lại toàn bộ bộ chữ tượng hình đã bị mất tích suốt hàng ngàn năm. Công trình này đã tiết lộ những bí mật của văn minh Ai Cập trong suốt hàng ngàn năm qua.
Champollion tiếp tục công việc phiên dịch các tài liệu cổ của Ai Cập, đặc biệt là bộ sách của thánh sư Thoth được ghi trên các bia đá và thạch trụ. Ông lưu ý rằng chữ tượng hình là một ngành khoa học thiêng liêng, chỉ có thể hiểu được một phần ý nghĩa thông thường dựa trên sự suy đoán về bộ chữ cái. Để hiểu sâu xa những diệu nghĩa huyền bí, người ta cần có kiến thức về tâm linh, một loại kiến thức siêu việt cao hơn tri thức thông thường. Do đó, ông kết luận rằng những bản dịch ám tự chỉ nên được coi là sự suy đoán, chữ chỉ mang ý nghĩa tương đối chứ không thể xác định ý nghĩa thật sự của nó.
Tôi tiếp tục hỏi: – Tôi rất ngưỡng mộ công trình nghiên cứu của ông về Ai Cập với những bằng chứng lịch sử. Ngoài ra, ông còn có thông tin gì thêm về nền văn minh này không? Giáo sư Baader rất nhiệt tình chia sẻ thêm: – Từ hàng ngàn năm trước, Ai Cập luôn được coi là trung tâm văn hóa quan trọng nhất ở khu vực gần Đông và là điểm đến của nhiều nhà hiền triết và thánh nhân. Sử gia Ennemoser đã ghi nhận rằng các nhà hiền triết Hy Lạp như Thales, Herodotus, Orphee, Parmenides, Enedoples và Pythagoras đều đã đến Ai Cập để học hỏi. Tuy nhiên, không rõ họ đã học với ai và ở đâu. Có thể họ đã đến các đền thờ để tìm hiểu và thụ giáo với các nhà thông thái.
Nhà thần học như nhà sử học Herodotus đã viết trong tác phẩm của ông.
Nhưng cũng có thể họ tìm đến các ốc đảo hoang vu để học hỏi với các bậc đạo gia uyên bác – như Pythagoras đã nói với các học trò về thời gian ông sống ở sa mạc Ai Cập. Những đạo gia này là ai? Không ai biết và không sách vở nào ghi chép rõ, nhưng nếu là bậc thầy của các hiền triết như Pythagoras, Thales hay Orphee thì chắc hẳn họ phải là bậc đại tôn sư, đại hiền triết. Câu hỏi là tại sao lại không thấy tài liệu nào ghi nhận. Phải chăng những bậc vĩ nhân này khiêm tốn, không màng danh lợi trần thế nên đã không chịu tiết lộ danh tánh của mình? Tôi tự hỏi: – Tại sao những người ẩn tu ngoài sa mạc ấy không để lại dấu tích gì? Giáo sư Baader trả lời: – Theo nghiên cứu của tôi thì từ xưa đã có những bất đồng ý kiến giữa các giáo sĩ về phương pháp tu luyện. Truyền thống tâm linh nào cũng chia làm hai phần: công truyền và bí truyền . Đối với các đạo gia hay giáo sĩ tu tập theo phương pháp bí truyền thì tự biết mình là điều chính yếu. Một khi đã ý thức về mình, về nguồn gốc thiêng liêng của mình, thì mọi sự sẽ tự nhiên được giải đáp .
Vì vậy, trước khi giải thích các hiện tượng ngoại giới và quy luật vũ trụ, trước khi dạy học hoặc thu nhận học trò, họ quay về bên trong để tự tìm hiểu bản thân thông qua các phương pháp tu tập nội quán. Vì vậy, hầu hết họ tìm đến những nơi hẻo lánh và tĩnh lặng để tu tập, thay vì sống trong những đền thờ ồn ào và phức tạp.
Với các giáo sĩ tu tập theo giáo lý công truyền, quy luật tự nhiên là công cụ hữu ích để sử dụng cho mục đích cá nhân. Thay vì tập trung vào bên trong, họ nghiên cứu và áp dụng kiến thức này vào khoa học, sử dụng các năng lực tự nhiên để đạt được sự thông thái. Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết về bản thân, họ dần dần rơi vào con đường sử dụng tà thuật vì tham lam, sân hận và kiêu căng. Nhờ hiểu biết về các động lực tiềm ẩn trong tự nhiên, họ có thể gọi và điều khiển các sinh vật cõi âm, và tự cho mình là đấng cao cả.
Cả, đại diện cho một thực thể tôn giáo. Thay vì chỉ dẫn mọi người, họ chỉ truyền đạt những kiến thức có ích cho bản thân hoặc cho nhóm của họ.
Thay vì giúp con người tiến bộ qua việc học hỏi, họ lại lạm dụng kiến thức cho mục đích cá nhân, tham lam và lừa dối mọi người bằng những lời hứa vô ích, nhằm bảo vệ quyền lợi cá nhân. Thay vì giúp con người thoát khỏi sự hạn chế và ràng buộc của những quan điểm hẹp hòi, họ biến các quy luật tự nhiên thành những quy tắc khắt khe, đe dọa. Dưới sự chỉ dẫn của họ, mặt trời không còn là nguồn sáng sáng tạo để xua tan bóng tối, mà đã trở thành một thần thù hung ác, dễ nổi giận và sẵn sàng trừng phạt những người làm trái ý. Điều này làm cho nền văn minh tôn giáo cổ dần dần mất đi giá trị và không còn được truyền bá.
Các giáo sĩ chân chính không chịu được áp chế tư tưởng nên họ đã rút lui vào sa mạc hoang vu để tu tập, không quan tâm đến những vấn đề xã hội.
Trong khi đó, số lượng giáo sĩ tà giáo, thầy phù thủy và những người sử dụng bùa chú ngày càng tăng lên. Họ hợp tác với những Pharaoh tham lam và tàn ác để tạo ra các hình thức tín ngưỡng mới, tôn thờ vô số thần linh mà chính họ đã tạo ra. Nhờ đó, tôn giáo Ai Cập đã trở thành một hệ thống tôn giáo đa thần.
Tôi hỏi thêm: – Ông đã dựa vào điều gì để đưa ra kết luận như vậy? Giáo sư Baader trả lời, bình tĩnh: – Tôi dựa vào các tài liệu tìm thấy trong mộ của Pharaoh Ramses II, trong đó có một sắc lệnh ghi rõ rằng vị vua này đã ra lệnh đốt cháy tất cả các sách viết về quy luật tự nhiên của đạo gia Denarath và mọi thứ liên quan đến tôn giáo thời cổ. Sau khi Moses giải phóng dân Do Thái, Pharaoh Ramses đã cho đốt cháy tất cả các tài liệu huyền môn và giết hết những giáo sĩ tu học theo tôn giáo cổ. Điều này là bằng chứng rõ ràng cho sự xung đột giữa hai quan điểm truyền thống và hiện đại.
Sau một khoảng thời gian ngắn, Giáo sư Baader ngừng lại và tiếp tục: – Theo nghiên cứu của tôi về các tài liệu cổ, nguyên nhân mà Do Thái giáo có những giá trị đặc biệt là nhờ vào công trình của Thái hậu Batria, người đã nuôi dưỡng nhà tiên tri Moses. Thái hậu Batria được biết đến là một nhà tu hành tài giỏi.
Đã được truyền dạy những tri thức tối cao của tôn giáo cổ đại, nhờ sự giáo dục của bà, dân Do Thái đã có một nhà tiên tri, một giáo chủ xuất sắc như Moses. Thánh Kinh ghi lại: “Khi còn trẻ, Moses đã được huấn luyện theo truyền thống triết học sâu sắc của Ai Cập”. Điều này ngụ ý rằng Moses đã được truyền thụ tri thức tôn giáo từ thời cổ đại. Một đoạn trong Thánh Kinh cũng ghi lại: “Khi nhận lãnh tri thức này, Moses đã che mặt bằng một tấm vải”. Một số nhà khảo cổ và giáo sĩ hiện nay cho rằng điều này chỉ đơn giản là Moses che mặt khi học những tri thức này. Tuy nhiên, câu này không có ý nghĩa gì vì không có bất kỳ đề cập nào trong Thánh Kinh về việc che mặt khi học. Theo quan điểm của tôi, câu này ngụ ý rằng có một bí mật được che giấu trong những điều Moses được dạy, chỉ những tri thức tối cao mới cần được che giấu. Điều này có nghĩa là Moses đã học những tri thức bí mật.
Lịch sử Do Thái ghi lại rằng Moses đã được đào tạo trong nghệ thuật huyền môn tại Heliopolis, một thành phố nằm cách thủ đô Cairo ngày nay vài chục dặm về phía Bắc. Heliopolis là một đô thị xây dựng xung quanh đền thờ Thái Dương, và tại trung tâm thành phố có một thạch trụ cao với các ký hiệu bí ẩn mà ngày nay vẫn chưa được hiểu rõ ý nghĩa. Trong các văn kiện của Do Thái giáo, Moses thường nhắc đến thạch trụ này như một địa điểm quan trọng mà ông thường đến để suy ngẫm về ý nghĩa của nó. Các nhà triết học Hy Lạp như Plato, Thales và Herodotus cũng đề cập đến thạch trụ này trong tài liệu của họ. Có lẽ thạch trụ mang một ý nghĩa đặc biệt mà các nhà triết học đã nhắc đến? Mục đích ban đầu của việc xây dựng thạch trụ giữa thành phố là gì? Đây là một bí mật chưa được giải đáp. Ngoài thạch trụ lớn này, còn có bảy thạch trụ nhỏ hơn được xây quanh nó.
Lịch sử ghi nhận rằng sau khi chinh phục Ai Cập, Hoàng đế Napoleon đã đến tham quan thạch trụ này. Ông thường đứng trước những cây thạch trụ lâu để suy nghĩ. Sau cùng, ông ra lệnh tháo gỡ một thạch trụ nhỏ và mang về đặt giữa thủ đô Paris. Nhiều người cho rằng đó là một chiến lợi phẩm của cuộc chinh phục Ai Cập. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng Hoàng đế Napoleon có thể đã biết một phần bí mật của những cây thạch trụ nên mới mang nó về đặt tại Paris. Mặc dù nó đã đứng giữa thủ đô Paris từ lâu.
Các nhà khảo cổ và nhà ngôn ngữ học chưa tìm ra ý nghĩa của những chữ trên cây thạch trụ này trong suốt thời gian qua.
Khi xâm chiếm Ai Cập, người Anh đã tháo gỡ một cây thạch trụ và mang về thủ đô Luân Đôn để xây dựng bên bờ sông Thames. Cả hai thạch trụ này đều có những ký hiệu bí ẩn, nhưng cho đến nay chưa ai hiểu được ý nghĩa của chúng. Hiện nay, các nhà khảo cổ vẫn đang tranh luận về nguồn gốc và mục đích tồn tại của những thạch trụ này, nhưng chưa đưa ra được bất kỳ kết luận nào. Tương tự, cho đến nay vẫn chưa có ai biết chính xác mục đích xây dựng các kim tự tháp là gì.
Tôi hỏi thêm: – Ông nghĩ những dòng chữ này có ý nghĩa gì? Giáo sư Baader mỉm cười và trả lời: – Theo quan điểm của tôi, những ký hiệu này là khóa bí mật chỉ có những người tu tập cao siêu và đã khám phá được sự cao cả của đạo mới có thể hiểu. Nếu chúng ta chỉ dịch từng câu, từng chữ một và đoán sai, chúng sẽ trở thành những câu nói ngây ngô không có ý nghĩa. Những ý nghĩa tượng trưng, bí ẩn và những lời tiên tri không phải là điều đơn giản mà một người bình thường có thể hiểu. Vì vậy, chúng ta cần những nghiên cứu sâu và xa hơn để hiểu rõ hơn.
Tôi gật đầu đồng ý vì trong thâm tâm tôi cũng biết rằng còn có những nền văn minh cổ xưa hơn nữa, nhưng đây là những điều không thể nói ra. Tôi có thể giúp gì cho bạn? – Vậy ông định tiếp tục nghiên cứu như thế nào? Giáo sư Baader chia sẻ: – Mặc dù một số kiến thức về khoa học ngày nay đều ít nhiều phát xuất từ người Do Thái thời xưa, nhưng mấy ai đặt câu hỏi rằng người Do Thái đã học được những điều ấy từ đâu? Nếu người Do Thái học từ Ai Cập thì người Ai Cập đã học những điều này ở đâu? Cho đến nay hầu hết các tài liệu nghiên cứu về các nền văn minh cổ đều dừng lại tại Ai Cập hay Lưỡng Hà vì đó là những nền văn minh được xem là cổ xưa nhất. Tuy nhiên, nếu loại bỏ các thành kiến hẹp hòi thì gần đây chúng tôi đã tìm được nhiều tài liệu cổ xưa hơn tại Ấn Độ, Tây Tạng và Trung Hoa. Do đó, tôi
Cần cho rằng đã đến thời điểm mà các nhà nghiên cứu, nhà khảo cổ cần đến những nền văn minh này để tìm hiểu thêm.
Ông cho rằng nền văn minh Ấn Độ, Trung Hoa còn xưa hơn cả Ai Cập sao? – Nếu chỉ dựa vào những di tích khai quật tại đó, thì nền văn minh phương Đông như Ấn Độ và Trung Hoa chỉ bắt đầu từ khoảng 4000 năm trước Công nguyên với những câu chuyện mơ hồ mà ngày nay chúng ta gọi là huyền thoại. Vì vậy, các nhà khảo cổ xếp nền văn minh Trung Hoa thực sự bắt đầu từ khoảng 3000 năm trước Công nguyên, tức là sau nền văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà. Tuy nhiên, do thiếu các công trình nghiên cứu nghiêm túc, không ai biết được liệu có những di tích văn minh nào đó ẩn giấu ở vùng đất xung quanh Ấn Độ, Trung Hoa hay Tây Tạng mà chưa ai biết đến.
Vào năm 1924, các nhà khảo cổ đã khám phá một thành phố cổ ở phía Đông Bắc xứ Ấn Độ (Mohenjo Daro) với hàng trăm ngôi nhà được xây dựng bằng đất rất vững chắc. Một số ngôi nhà còn có hai tầng. Mỗi ngôi nhà đều có phòng ngủ, phòng bếp, nhà tắm và nhà vệ sinh riêng, với hệ thống cấp nước từ sông và hệ thống thoát nước thông qua ống cống. Các ngôi nhà này được xây dựng theo kế hoạch rõ ràng, và mỗi vài chục ngôi nhà lại có một quảng trường, được cho là nơi tổ chức chợ hoặc họp công cộng. Các phương pháp định niên đại đã xác nhận rằng nền văn minh này đã tồn tại từ khoảng mười ngàn đến mười lăm ngàn năm trước Công nguyên, tức là trước cả nền văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà. Hiện vẫn chưa có thông tin về nền văn minh này và cư dân sống tại đó, và nghiên cứu vẫn đang tiếp tục. Nếu nhìn vào khoảng thời gian này, hầu hết người dân châu Âu vẫn sống trong thời kỳ đồ đá, không biết xây dựng nhà cửa, chỉ biết hái lượm và săn bắn. Vậy chúng ta phải kết luận như thế nào? Liệu có thể từ xa xưa đã tồn tại nhiều nền văn minh khác nhau trên thế giới mà vì lý do nào đó đã biến mất một cách bí ẩn? Giáo sư Baader, một nhà khảo cổ hài hước, đã nói: “Nếu vì lý do gì đó mà hầu hết con người trong thời đại văn minh này biến mất khỏi bề mặt trái đất, thì sau vài trăm năm, người ta sẽ khám phá ra”.
Các bộ lạc bán khai tại châu Phi sẽ nghĩ thế nào về các khí cụ thô sơ của họ? Có thể có người kết luận rằng con người thuộc thế kỷ hai mươi chỉ biết sống man rợ và ăn lông ở lỗ. Trước những bằng chứng mới mẻ vừa được khám phá, chúng ta cần đặt câu hỏi liệu từ ngàn xưa, nhiều nơi trên bề mặt địa cầu, đặc biệt là ở phương Đông, đã có những nền văn minh phát triển cao hơn so với phương Tây. Có thể khi người phương Tây còn sống man rợ trong núi non và rừng thẳm, người phương Đông đã biết sống hợp quần, xây dựng đô thị, phát triển nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ và có một đời sống tinh thần cao. Có thể khi người phương Tây còn bận rộn với việc tìm kế sinh nhai, người phương Đông đã suy nghĩ về những điều thâm sâu và rộng lớn hơn, và đã có những lời giải đáp cho thắc mắc của họ. Ví dụ, Ấn Độ là một quốc gia đặc biệt với những truyền thống tôn giáo lạ lùng, phức tạp và khó diễn tả. Gần đây, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tài liệu cổ viết từ bảy ngàn năm trước Công nguyên mà những nhà cổ ngữ học thông thái nhất vẫn chưa truy cứu ra lai lịch của chúng. Chưa ai hiểu những chữ loằng ngoằng kỳ lạ này muốn nói gì. Chúng còn cổ xưa hơn chữ Phạn, do đó chúng phải xuất phát từ một nền văn minh xa xưa mà chưa ai biết. Nếu các đạo sĩ Ai Cập hay Do Thái đã cẩn thận gìn giữ các giáo lý bí truyền của họ, thì người Ấn còn giữ cẩn mật hơn nữa. Thay vì truyền bá cho một thiểu số đạo đức chọn lọc như tại Ai Cập hay Do Thái, khoa huyền môn Ấn Độ chỉ được truyền bá trong trường hợp đặc biệt, vì lợi ích chung.
Người Ấn Độ từ lâu đã sở hữu một kho tàng kiến thức khoa học đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực như thiên văn, địa lý, toán học và siêu hình học. Yoga, như chúng ta biết hiện nay, chỉ là một phần nhỏ trong bộ sách dày đặc ghi chép những kiến thức của người xưa, nhưng đã bị mất đi theo thời gian.
Có những tài liệu cổ cho biết rằng Ấn Độ đã từng trải qua một thời kỳ thịnh vượng, khi mọi người sống hòa thuận với các quy luật tự nhiên. Tuy nhiên, sau đó, đất nước này đã trải qua một giai đoạn suy thoái do không kiềm chế được các ham muốn, đặc biệt là ham muốn tình dục và sự thỏa mãn.
Để giải quyết tình trạng rối loạn xã hội này, các bậc đạo trưởng đã tổ chức cuộc họp và quyết định giảng dạy một phần nhỏ trong quyển sách ghi nhận kiến thức thời cổ. Đó là chương Yuj, hiện được gọi là Yoga. Đây chỉ là phần hướng dẫn về phương pháp tu luyện thể xác và tinh thần để cân bằng cả thân và tâm, phát triển khả năng trí tuệ của con người. Nếu điều này là thật, thì bộ sách đó, một kho tàng văn hóa thiêng liêng của Ấn Độ thời xưa, phải là sản phẩm của một nền văn hóa cao siêu vô cùng. Tuy nhiên, hiện tại không còn ai hiểu rõ về nền văn minh đó nữa.
Giáo sư Baader giải thích rằng mỗi dân tộc đều có những huyền thoại về nguồn gốc, địa thế và tổ tiên của họ, tạo nên nền văn hóa đặc trưng. Mặc dù nhiều người cho rằng những câu chuyện này chỉ là truyền thuyết, không có giá trị sử liệu, nhưng có thể chúng còn chứa đựng những điều chúng ta chưa biết. Theo tôi, huyền thoại không chỉ là tưởng tượng, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc, cần được nghiên cứu để hiểu rõ công trình của tiền nhân. Một quốc gia không thể tồn tại lâu dài trong lịch sử nếu không có anh hùng bảo vệ đất nước. Một quốc gia cũng không thể tồn tại nếu không có nền văn hóa độc đáo, khác biệt với các quốc gia khác. Nếu chỉ dựa trên lý luận khoa học và bác bỏ những huyền thoại, thì thật đáng tiếc.
Tôi tự hỏi: – Tại sao ông lại chú trọng đến những huyền thoại như thế? Giáo sư Baader tiếp tục chia sẻ: – Như ông cũng biết, thiên anh hùng ca Iliad của Homer là một huyền thoại nói về trận chiến giữa lãnh chúa Agamemnon và thành Troy để cướp lại một tuyệt sắc giai nhân tên là Helen. Cuộc chiến thành Troy đề cao những vị anh hùng như Hector, Achilles, Ulysses… cũng như sự can thiệp của các thần linh Hy Lạp vào đời sống con người. Từ bao năm nay, mọi người đều coi đó là sự tưởng tượng phong phú của thi sĩ Homer. Ngày nay, người ta đã tìm được di tích thành Troy và rất nhiều tài liệu liên quan đến trận
Trận chiến này được công nhận là một sự kiện lịch sử, với những chi tiết và nhân vật thực tế. Homer chỉ thêm một số chi tiết để làm cho bản trường ca này trở nên bất hủ.
Từ thời xa xưa, Hy Lạp đã phát triển một nền văn minh vô cùng tiên tiến. Các nhà triết học, nhà sử học và học giả của đất nước này đã truyền bá kiến thức về khoa học, triết học, toán học và chiêm tinh học, ảnh hưởng của chúng vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Đúng như vậy, nền văn minh của Hy Lạp đã đặt nền móng cho sự phát triển văn minh của châu Âu hiện đại. Lịch sử của Hy Lạp chứa đựng nhiều huyền thoại và bài thơ ca ngợi những anh hùng và chiến sĩ can trường, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đất nước. Không có nền văn hóa nào có nhiều anh hùng như vậy. Một nhà sử học đã liệt kê danh sách các anh hùng Hy Lạp thời cổ, bất kể liệu họ có thật hay chỉ là huyền thoại, và con số đó lên tới hơn năm ngàn người. Vậy tại sao lại có nhiều anh hùng đến vậy? Nếu nhìn vào bối cảnh lịch sử thời đó, ta có thể thấy rằng Ba Tư là một đế quốc mạnh mẽ đang mở rộng lãnh thổ một cách mạnh mẽ, xâm lăng và chiếm đóng hầu hết các quốc gia xung quanh, đồng thời đánh bại và đe dọa cả Hy Lạp.
Ba Tư đã chiếm quyền kiểm soát các vùng biển xung quanh Hy Lạp, bao gồm các đảo như Crete, Eubeas, Rhodes, Sacconi và Santorini, nhằm kiểm soát và thống trị các tuyến đường biển quan trọng. Họ cho rằng Địa Trung Hải là lãnh thổ của mình và có ý định chiếm đoạt tất cả các tuyến đường biển ở đây.
Có nhiều trận chiến đã xảy ra giữa hai quốc gia này. Ba Tư đã tấn công Hy Lạp nhiều lần, nhưng nhờ lòng dũng cảm của người dân Hy Lạp, đất nước này vẫn giữ được độc lập. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của Alexander Đại đế, người Hy Lạp không chỉ đánh bại Ba Tư mà còn chiếm quyền kiểm soát hơn một nửa thế giới.
Không thể giành được vị trí địa lý và thua cuộc trước sức mạnh của Hy Lạp.
Thua thảm hại, từ trận này đến trận khác, và cuối cùng phải chịu thua trước Hy Lạp? Ông có biết vì lý do gì không? Tôi suy nghĩ, rồi lắc đầu: – Tôi không rõ, có lẽ người Hy Lạp đã có những kế hoạch táo bạo hay chiến lược hiệu quả? Giáo sư Baader bật cười: – Không phải vậy đâu. Cả hai nước đều có quân đội mạnh mẽ và tướng lãnh tài ba. Theo tài liệu sử học, tinh thần yêu nước của người Hy Lạp lúc đó rất cao. Tại sao thế? Vì văn hóa của họ tập trung vào tinh thần yêu nước và tôn vinh lòng dũng cảm của toàn dân. Theo tài liệu, không một binh sĩ Hy Lạp nào không thuộc lòng các bài thơ của thi sĩ Homer ca ngợi các anh hùng. Theo tôi, chính những bài thơ, bài hát ca tụng tinh thần bất khuất, can trường của các anh hùng như Hercules, Achilles, Agamemnon, Hector, Ulysses… Đã khơi dậy tinh thần chiến đấu anh dũng của người Hy Lạp, và đó chính là nguyên nhân quan trọng trong cuộc chiến bảo vệ đất nước. Không phải chỉ có quân số đông, vũ khí tốt mới có thể thắng trận, mà chính tinh thần anh dũng, can đảm, quyết tâm không sợ hãi mới là lý do chính đã mang lại chiến thắng cho quân lực Hy Lạp và đưa nước này lên vị trí mạnh mẽ ít lâu sau khi Alexander Đại đế lên nắm quyền.
Tôi nhớ lại tất cả những trải nghiệm đời trước của mình cùng những câu chuyện thú vị với ông Kris và giáo sư Baader, tôi đã khám phá ra một sự thật. Qua nhiều nghiên cứu, thực nghiệm, trải nghiệm thực tế và lịch sử đã chứng minh điều mà trước đây đã gây tranh cãi giữa nhiều thế hệ con người, tôn giáo và triết học thiên tài: “Không chỉ con người mới trải qua luân hồi và tái sinh, mà các đế chế, triều đại và nền văn minh trên hành tinh này cũng trải qua chu kỳ luân hồi – theo một quy luật không thể vĩnh hằng mãi mãi”.
PHẦN BẢY THÀNH – TRỤ HOẠI – DIỆT VÒNG TRÒN VŨ TRỤ Sau hơn một tháng thực hành phương pháp tĩnh tâm, tôi cảm thấy thoải mái hơn, hơi thở nhẹ nhàng hơn. Ngồi xuống sàn theo tư thế kiết già, ban đầu có chút đau chân và mỏi lưng, nhưng tôi nhớ lời dặn của ông Kris, tập trung tư tưởng để hít thở nhẹ nhàng, giữ đầu óc bình thản. Tôi hiểu rằng đau đớn xuất phát từ bên trong tâm hồn, và nếu giữ tâm tĩnh lặng, cơn đau sẽ không còn ảnh hưởng nữa.
Angie bất ngờ khi thấy tôi ngồi xếp bằng và hỏi: – Anh giờ cũng thường tập thiền à? Muốn tránh giải thích quá nhiều, tôi chỉ đơn giản nói: – Đúng vậy, tôi tập để đầu óc được thư giãn một chút, vì công việc gần đây của tôi quá căng thẳng.
Nghe nói vậy, Angie đã đề nghị: – Nếu anh muốn thư giãn, tại sao chúng ta không đi Colorado nghỉ một vài ngày? Tôi đồng ý và cuối tuần đó, chúng tôi đã đến một căn nhà nghỉ dưỡng. Sau khi nghỉ ngơi một thời gian, tôi đã ghé thăm ông Kris và chia sẻ với ông về việc thực hiện phương pháp tĩnh tâm mà ông đã từng khuyên tôi.
Ông Kris hạnh phúc nói:
Nếu ông có thể ngồi vững và giữ được tâm tĩnh, ông đã vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu. Bây giờ, ông cần tập trung loại bỏ những suy nghĩ không cần thiết, không để chúng lan tràn. Giai đoạn này sẽ mất nhiều thời gian hơn vì những thói quen suy nghĩ trong quá khứ sẽ làm xao lạc tâm trí. Dù ngồi yên, ông sẽ có rất nhiều ý nghĩ xuất hiện. Vì vậy, ông phải biết quan sát nhưng không để chúng ảnh hưởng đến mình.
Hãy để chúng tự nhiên đến và đi, bạn sẽ thấy ý tưởng nảy sinh và hoạt động như thế nào, sau đó chúng sẽ mất đi hoặc chìm vào quên lãng. Hãy giữ bình tĩnh, không can thiệp và duy trì hơi thở, sau một thời gian bạn sẽ đạt được sự tĩnh lặng. Sự kiên nhẫn là nguồn năng lượng. Dù có đau đớn về thể xác, hãy giữ vững tư thế.
Dù có nảy sinh những ý nghĩ này nọ, ta vẫn giữ được nhịp thở, không để chúng ảnh hưởng. Sau một thời gian thực hành, ta sẽ tiến bộ. Điều quan trọng ở thời điểm này là tiếp tục tuân thủ đúng thời khắc, không thay đổi. Đây là thói quen cần thiết phải duy trì, vì nếu ta chỉ ngồi chăm chỉ vài ngày rồi nghỉ vài ngày, khó có thể tiến xa được.
Tôi rất biết ơn ông Kris vì lời hướng dẫn đơn giản và dễ hiểu này. Theo ông Kris, trong thời đại hiện nay, có rất nhiều yếu tố làm xao lãng tâm trí con người, làm cho việc thực hiện những phương pháp truyền thống trở nên khó khăn. Với sự phát triển của công nghệ, tâm lý con người đã bị ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố. Vì vậy, chúng ta cần bắt đầu từ những bước cơ bản, tạo thành thói quen, để phát triển sức mạnh tinh thần và có thể đối phó với tình hình hiện tại. Khi đã có nền tảng vững chắc, chúng ta mới có thể tiến xa hơn. Vì vậy, việc thực hành không nên vội vàng, không nên hấp tấp.
Tôi trình bày cho ông Kris nghe về nghiên cứu của giáo sư Baader.
Ông Kris phát biểu với sự hứng thú: – Rõ ràng, các nghiên cứu khảo cổ có thể khám phá thêm nhiều thông tin về các nền văn minh cổ đại và nguồn gốc của loài người.
Nhìn thấy ông Kris có vẻ cũng thông thạo những vấn đề này, tôi đã hỏi thêm.
Có thể chúng ta có thể hiểu được nguồn gốc và tương lai của con người không? Ông Kris cười và nói: “Câu hỏi về nguồn gốc và tương lai của con người đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước. Đã có nhiều lý thuyết được đưa ra để trả lời câu hỏi này, nhưng không một lý thuyết nào có thể giải đáp một cách đầy đủ. Mỗi thời đại đều cố gắng trả lời câu hỏi này dựa trên quan niệm và giá trị thịnh hành của thời đại đó. Khi xã hội và khoa học tiến bộ, giá trị thay đổi, quan niệm và lập luận cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một lý thuyết nào có thể tồn tại lâu dài và đáp ứng được thử thách của thời gian.”
Ông Kris giải thích thêm rằng, từ lâu người ta tin rằng có một Đấng Hóa Công đã tạo ra tất cả vạn vật, bao gồm cả con người. Tuy nhiên, theo lý thuyết khoa học hiện đại, loài người bắt nguồn từ các sinh vật đơn bào, qua quá trình tiến hóa dần dần trở thành các sinh vật phức tạp hơn như cá, bò sát, động vật có vú, và cuối cùng là linh trưởng, trở thành loài người. Thuyết Tiến hóa của nhà sinh vật học Charles Darwin đã trở thành nền tảng của khoa học thực nghiệm, và đã phủ nhận thuyết Hóa công trước đó. Điều này cho thấy, khoa học đã cung cấp một lý thuyết để bác bỏ niềm tin vào Đấng Hóa Công. Trên thực tế, trong tương lai, có thể lại xuất hiện một quan niệm mới để thách thức thuyết Tiến hóa của Darwin. Tóm lại, quan niệm về nguồn gốc của con người thay đổi theo sự hiểu biết của con người trong từng thời kỳ.
Người xưa quan niệm về nguồn gốc con người như thế nào? – Từ xa xưa, những triết gia thông thái đã quan sát tự nhiên và có cái nhìn riêng không dựa trên lý thuyết trừu tượng hay dữ kiện khoa học như ngày nay. Trong cuốn sách cổ của Do Thái, Siphra Dzeniouta, được coi là cuốn sách lâu đời nhất, đã đề cập đến tài liệu đó với chú thích “Trích dẫn trong sách cổ của tiền nhân”. Tài liệu này có thể đã được viết từ rất lâu vì các học giả Do Thái, nổi tiếng với tính cẩn thận và tỉ mỉ, không thể tra cứu được nguồn gốc của nó. Tài liệu này chứa đựng những phương trình toán học biểu thị sự biến đổi trong vũ trụ với những chu kỳ.
Công thức xoáy vẫn là một bí ẩn mà các nhà nghiên cứu hiện nay vẫn đang nỗ lực để giải thích, bởi nó rất phức tạp.
Theo tài liệu này, mọi sự trên thế giới đều tuân theo một vòng xoáy thay vì diễn ra theo đường thẳng từ thấp lên cao, như các nhà khoa học ngày nay cho rằng. Mỗi vòng xoáy bao gồm bốn giai đoạn là Thành, Trụ, Hoại, Diệt trước khi chuyển sang vòng xoáy tiếp theo. Quan niệm về vòng xoáy này đã được người Ấn Độ và Trung Hoa đề cập trong sách vở của họ từ lâu, tuy nhiên, họ không đi sâu vào chi tiết và không sử dụng phương trình toán học như tài liệu cổ xưa.
Theo tài liệu này, mỗi chu kỳ đều chứa sự xuất hiện, phát triển, suy tàn và biến mất của các nền văn minh khác nhau. Có thể suy nghĩ rằng từ xa xưa đã tồn tại những nền văn minh thuộc các loài có hình thể và hiểu biết khác với chúng ta trên trái đất này. Sau khi phát triển, chúng đã suy tàn và biến mất trong giai đoạn Hoại và Diệt của chu kỳ.
Hiện tại, không ai có thể tin rằng trong quá khứ đã tồn tại những loài người khác biệt so với chúng ta ngày nay, hoặc những nền văn minh cổ đại với tri thức khác biệt hoàn toàn so với chúng ta. Ngày càng có nhiều khám phá về nguồn gốc của con người. Khi các nhà địa chất phát hiện ra những công cụ đá thô sơ, họ kết luận rằng nếu ta quay về thời kỳ đồ đá, con người chỉ là những sinh vật man rợ, không khác gì động vật. Vì vậy, khi Charles Darwin đưa ra giả thuyết rằng con người bắt đầu từ một giống vượn và tiến hóa thành loài người, quan điểm này đã được các nhà khoa học thế kỷ 19 và 20 chấp nhận ngay lập tức. Họ cho rằng nền văn minh hiện đại của chúng ta là kết quả của quá trình tiến hóa từ mức độ thấp lên cao, từ trạng thái man rợ đến trạng thái văn minh. Chúng ta đang ở đỉnh cao nhờ các khám phá và phát minh của khoa học thực nghiệm.
Tôi không thể nhịn cười: – Thật khó tin khi nghe nói rằng từ xưa đã có những loài người khác biệt hoàn toàn với chúng ta trên hành tinh này.
Ông Kris nhẹ nhàng tiếp tục nói:
Trong thời xa xưa, có một truyền thuyết phổ biến trong giới học giả Hy Lạp được triết gia Plato ghi lại trong cuốn Phaedrus. Theo đó, con người từng và sẽ trở thành những sinh vật có cánh, sống trong thế giới trời cùng với các thần linh. Thực tế, họ thậm chí còn là những thần linh, nhưng vì mất cánh mà phải sống dưới trần gian dưới hình dạng con người. Chỉ khi tìm lại được đôi cánh, họ mới có thể bay về quê hương của mình.
Tôi ngạc nhiên hỏi: – Triết gia Plato đã viết như thế sao? Tôi chưa từng đọc cuốn Phaedrus , nhưng có thể đó chỉ là một ẩn dụ, đề cập đến một vấn đề gì đó? Ông Kris gật đầu đồng ý: – Dĩ nhiên, chưa có bằng chứng nào cho thấy con người khi xưa đã từng có cánh và bay lượn trong không gian. Cách đây không lâu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy trong kim tự tháp ở Nam Mỹ một tài liệu cổ tên là Popol Vuh , trong đó ghi nhận nguồn gốc của nhân loại như sau: “Khi xưa, con người không có hình thể rõ ràng như ngày nay mà chỉ là những thực thể thanh nhẹ, sống trong thế giới gần với các thần linh. Họ có khả năng lý luận sâu sắc và liên lạc với nhau bằng tư tưởng. Những thực thể này sở hữu một thứ nhãn quan gần như là vô hạn, có thể nhìn thấy tất cả mọi sự. Thế giới của họ toàn là những chủng loại vô hình, tốt cũng như xấu, cao cũng như thấp .
Có những người sống trong thế giới cao cấp, có khả năng nhìn thấy những thế giới khác. Một số người tò mò đã đến thế giới này và bị lừa dối.
Khi cơ thể của họ bị những yếu tố vật chất nặng trụ lại, họ không thể trở về thế giới nhẹ nhàng và buộc phải ở lại đây. Để tồn tại trong thế giới này, họ phải tạo ra những “bộ áo” từ vật chất để bảo vệ các giác quan nhạy cảm của mình. Những “bộ áo” này đã tạo nên hình dáng cho họ và giúp họ thích nghi với cuộc sống mới. Tuy nhiên, vì chúng được tạo thành từ vật chất, chúng cản trở sự nhạy bén của các giác quan, khiến chúng không còn nhạy bén như trước. Dần dần, những “bộ áo” này trở thành rào cản ngăn cách họ với thế giới tinh thần cao cả. Vì không thể giao tiếp bằng suy nghĩ nữa, họ phải tạo ra ngôn ngữ để biểu đạt suy nghĩ của mình. Tuy nhiên, ngôn ngữ chỉ là một công cụ hạn chế trung gian và không thể thay thế được.
Diễn tả hết những hiểu biết thật sự. Theo thời gian, kiến thức của họ dần dần bị hạn chế bởi ngôn ngữ mà họ sử dụng. Khi tinh hoa của sự hiểu biết mất đi thì con người trở nên sa đọa, các tư tưởng thanh cao bị thay thế bởi các tư tưởng thấp hèn, các giác quan siêu việt của linh hồn bị thay thế bởi các giác quan thấp mọn của thể xác vật chất. Cuối cùng, con cháu của họ chỉ biết sống thụ động, không còn biết gì về nguồn gốc thiêng liêng hay khả năng siêu việt khi xưa nữa. Tuy nhiên, một số rất ít nhớ được đôi chút về nguồn gốc qua những câu chuyện truyền khẩu hoặc sở hữu một vài kiến thức đặc biệt nhờ biết kiểm soát thể xác, tu dưỡng tinh thần, nên họ có thể giao cảm với cõi thiêng liêng, do đó thấy được những biến cố trong tương lai. Họ là các nhà tiên tri, hay pháp sư thuở trước.” – Nghe ông giải thích một cách chi tiết như thế, tôi nghĩ có lẽ ông cũng tin rằng mọi sự đều thay đổi theo quan niệm chu kỳ? Ông Kris chăm chú nhìn tôi, rồi điềm tĩnh trả lời: – Nếu giải thích theo lý luận khoa học hiện nay, rằng con người bắt nguồn từ loài cấp thấp, tiến hóa thành người, đi từ thấp lên cao, theo một đường thẳng và cứ tiếp tục thay đổi mãi thì quan niệm chu kỳ này không thể chấp nhận được. Nhưng nếu giải thích theo quan niệm của người xưa với những vòng xoáy, mỗi vòng là một chu kỳ khác nhau, tiếp diễn không ngừng, qua bốn giai đoạn Thành – Trụ – Hoại – Diệt, thì điều này rất có lý và có thể chấp nhận được .
Tôi đặt câu hỏi: – Tại sao những nền văn minh đã biến mất nhanh chóng như vậy? Ông Kris giải thích: – Theo vật lý học, khi ta ném một vật lên không trung, sức ném ban đầu mạnh nhưng dần dần giảm khi vật lên cao, sau đó vật chuyển hướng rơi xuống với một lực ngược lại, ban đầu chậm rồi tăng nhanh. Tương tự, trong giai đoạn Thành và Trụ, rất nhiều công sức được đầu tư nhưng khi bước vào giai đoạn Hoại và Diệt, thường diễn ra rất nhanh. Mọi nền văn minh đều trải qua quá trình mất đi.
Nhiều thời gian xây dựng mới tạo được, nhưng khi suy hoại thì biến cố này diễn ra nhanh vô cùng .
Ví dụ như, con người đã trải qua hàng thế kỷ để có được nền văn minh như hiện tại. Nhưng nếu xảy ra một cuộc chiến lớn với vũ khí hạt nhân phá hủy tất cả, tất cả sinh vật sẽ bị tiêu diệt. Nếu tất cả những gì thuộc về nền văn minh hiện tại biến mất, thì trong chu kỳ tiếp theo, ai còn biết về thời đại này? Ông Kris nhìn tôi với ánh mắt ý nghĩa và nói: – Tương tự như vậy, nếu có một trận động đất lớn xảy ra trên toàn cầu, chôn vùi tất cả lục địa dưới lòng đại dương, thì không còn di tích nào tồn tại. Điều này đã xảy ra với Atlantis, ông có nhớ không? Tôi hỏi thêm: – Nếu như vậy, trong chu kỳ tiếp theo, tất cả phải bắt đầu từ đầu à? Ông Kris gật đầu: – Đúng vậy, tất cả phải bắt đầu lại từ đầu vì mỗi chu kỳ mang những bài học và giá trị riêng, chỉ hữu ích cho con người trong thời đại đó. Như tôi đã nói, cuộc sống là một ngôi trường và con người phải học những bài học cần thiết. Một số người học nhanh, một số người học chậm, vì vậy họ phải trải qua nhiều kiếp sống trong chu kỳ đó để học những bài học cần thiết.
Tôi hiểu nhưng vẫn thắc mắc: – Vậy người ta cần học những gì? Ông Kris giải thích thong thả: – Nói chung, có những bài học mà toàn bộ nhân loại cần học để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo. Còn cụ thể hơn, mỗi cá nhân cũng có những bài học riêng mà họ cần học tùy theo mong muốn và hoàn cảnh của mình. Ví dụ, trong cuộc đời của ông tại Atlantis, trước khi qua đời, ông đã hối hận về hành động của mình và có tình thương đối với Kor. Vì vậy, theo quy luật Nhân quả, ông sẽ gặp lại cô ấy để trả nợ cho hành động đã gây ra và tiếp tục học bài học này trong những cuộc đời tiếp theo vì đó là ý nguyện của ông. Tất cả mọi người khi qua đời đều có những suy nghĩ riêng, như tình yêu, sự tức giận, lòng thù hận.
Oán, hay hối tiếc… Và những điều này sẽ trở thành những yếu tố dẫn dắt họ vào cuộc sống sau này.
Trong chu kỳ này, con người đã học được những gì? – Có rất nhiều kiến thức mà chúng ta cần phải nắm để thích ứng với sự thay đổi trong mỗi giai đoạn. Hiện nay, có rất nhiều kiến thức từ các nền văn minh cổ đại và các bài học lịch sử qua các thời kỳ. Tuy nhiên, không phải ai cũng đã tiếp thu được tất cả những bài học đó. Vì vậy, chúng ta cần phải khơi gợi lại những bài học quan trọng này. Nếu không, chúng ta sẽ phải học lại từ đầu.
Ông cho rằng bài học nào cần được khơi gợi lại?- Mỗi kiến thức, mỗi kinh nghiệm, đều mang lại lợi ích cho mọi người để thay đổi. Hiện nay, chúng ta cần loại bỏ thành kiến và sự kiêu ngạo của nền khoa học thực nghiệm để tìm lại những môn học cổ xưa, những bài học lịch sử, vì chúng ta cần phục hồi những giá trị này hơn bao giờ hết.
Ông Kris suy nghĩ một lúc trước khi nói: – Khá lâu trước đây, thư viện Astor ở New York đã tìm thấy một cuốn cổ thư Ai Cập có tựa đề “Phương pháp chữa bệnh nội thương của Thoth”. Đây là một bản sao được sao chép từ khoảng 1500 năm trước Công nguyên, được viết trên giấy chỉ thảo tốt nhất, dài hơn 20 thước và rộng không quá 30 phân, cuốn sách được cuộn lại trong một ống đồng chạm trổ tinh xảo. Cuốn sách được chia thành 110 chương, được đánh dấu cẩn thận, đề cập đến các phương pháp điều trị bệnh nội thương, cũng như các loại thuốc và công thức pha chế thuốc mà ngày nay chúng ta vẫn chưa biết. Ngoài ra, nó cũng nêu rõ trách nhiệm và nhiệm vụ của các y sĩ tại trường Khoa học của sự Sống tại Abydos, cách họ được đào tạo và cam kết làm việc. Đây là một hiệp ước thiêng liêng giữa những người được chọn vào trường Khoa học của sự Sống và mục đích cũng như tôn chỉ của trường này. Nó kết nối các y sĩ mới tốt nghiệp với những thế hệ y sĩ trước đó, cũng như với Thoth, người đã đặt nền móng cho y học Ai Cập. Nó giúp các y sĩ thời cổ đạt đúng lương tâm và nghĩa vụ của mình.
Ngày nay, dù các y sĩ cũng tuyên thệ theo lời của Hippocrates, nhưng không nhiều người tuân thủ. Đa số chỉ coi đó là một nghi thức trong lễ tốt nghiệp, không ai đặt quá nhiều tâm huyết vào lời tuyên thệ này. Trong quá trình làm việc, nhiều người đã để mục đích kiếm tiền ảnh hưởng đến chất lượng công việc của mình. Hiện nay, chúng ta có thể thấy rằng hầu hết các hệ thống y tế hiện đại chỉ huấn luyện y sĩ để chữa bệnh, không quan tâm đến lương tâm hay đạo đức nghề nghiệp. Hầu hết các bệnh viện và y sĩ chỉ quan tâm đến việc chữa trị cho những người có khả năng trả tiền, ít ai coi y nghiệp là một trách nhiệm cao quý.
Vì vậy, chúng ta cần phục hồi lại truyền thống y học cổ xưa cao đẹp này.
Theo triết gia Iamblichus (245 – 325), cuốn sách này từng được cất giữ kỹ càng trong đền thờ Khoa học của sự Sống tại Abydos. Khi Alexander Đại đế chinh phục Ai Cập, ông đã thu thập và sao chép các tài liệu, sách vở của nền văn minh Ai Cập để cất giữ trong thư viện tại thành phố Alexandria, được đặt theo tên ông, để các học giả sau này nghiên cứu. Thư viện này được xây dựng công phu với tường vách bằng đá bao quanh, và giữa có một khu vườn rộng trồng nhiều cây cao để các học giả có thể thư giãn khi nghiên cứu. Theo Iamblichus, thư viện này chứa hơn sáu vạn tài liệu, được đánh số thứ tự một cách cẩn thận.
Khi người La Mã xâm chiếm Ai Cập, Hoàng đế Julius Caesar đã quyết định phá hủy những bức tường bao quanh thư viện để lấy gạch đá để xây dựng đường, trong quá trình này, một số quân lính đã lợi dụng cơ hội để lấy đi những đồ vật quý giá, dẫn đến việc mất mát một số tài liệu quý giá.
Khi người Ả Rập xâm chiếm Ai Cập, họ ngay lập tức tiến hành đốt cháy mọi di sản văn hóa của Ai Cập để đồng nhất với văn minh của mình. Thư viện Alexandria đã bị vua Umar bin Al Khattab ra lệnh tiêu hủy, tất cả sách vở đều bị đốt cháy để ngăn chặn sự hiểu biết về văn hóa Ai Cập. Tuy nhiên, may mắn thay, một cuốn sách đã được giấu trong một ống đồng và không bị thiêu hủy bởi ngọn lửa. Vào đầu thế kỷ 21, một kiến trúc sư người Anh, trong quá trình đào đất để xây dựng một cảng biển, đã tìm thấy cuốn sách này. Cuốn sách đã ghi rõ rằng nó xuất phát từ thư viện Alexandria. Người kiến trúc sư đã quyết định tặng nó cho thư viện Astor để lưu trữ. Nhờ vậy, chúng ta mới biết được câu chuyện này.
Cách đây lâu rồi, nền văn minh Ai Cập đã có sự tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực y học và đào tạo y sĩ.
Tuy nhiên, việc tìm lại tài liệu này có thể không thay đổi được gì. Ngày nay, hầu hết mọi người sống trong sự vội vã và thụ động, để tiền bạc và của cải vật chất chi phối cuộc sống của họ. Không ai có thời gian để nghiên cứu những tài liệu cổ để hiểu cách mà người xưa đã làm việc. Tuy vậy, chỉ cần vài người có lòng đam mê và hành động theo đúng hướng, mọi thứ có thể thay đổi. Hiện nay, hầu hết mọi người làm việc trong bất kỳ ngành nghề nào cũng thiếu đi hai yếu tố quan trọng là lòng trung thực và đạo đức nghề nghiệp.
Hiện nay, hệ thống giáo dục chỉ tập trung vào việc dạy con người làm việc để kiếm sống mà không chú trọng đến đạo đức và lương tâm chức nghiệp. Do đó, nó cần được bổ sung và cải thiện. Tuy nhiên, mọi người không chỉ cần làm việc để sinh sống mà còn cần làm việc với tình yêu và trách nhiệm. Cuộc sống ngắn ngủi như bọt nước, chẳng ai thực sự nhận thức được điều đó. Cuộc đời có thăng trầm, tài chính và sự nghiệp cũng có lúc có lúc không, lúc giàu có lúc nghèo khó. Nếu không có mục tiêu rõ ràng trong cuộc sống, nếu không có lòng trắc ẩn và lương tâm chức nghiệp từ khi bắt đầu làm việc, ta dễ bị mê hoặc bởi lòng tham, mất đi mục đích và hướng đi, không biết con đường mình phải đi. Kết quả là ta sống trong mờ mịt và phải chịu những hậu quả của hành động của mình. Những bài học này đã được truyền lại từ thời xa xưa và để lại những tài liệu hữu ích. Nếu chúng ta không khôi phục lại những giá trị đạo đức này, chúng ta sẽ gặp phải những hậu quả to lớn trong tương lai.
Trưởng thành và cuối cùng là qua đời. Tất cả đều tuân theo một chu kỳ tự nhiên.
Sau một thời gian dài, con người già đi và cuối cùng là qua đời. Nếu nhìn xa hơn, quá trình phát triển của một quốc gia cũng tương tự. Khi quốc gia được thành lập, nó phát triển và mạnh mẽ, sau đó suy thoái và biến mất. Tuy nhiên, thời gian của mỗi giai đoạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Điều này chỉ có thể được giải thích bằng luật Nhân quả.
Tôi bất ngờ: – Tại sao lại là luật Nhân quả? Ông Kris giải thích, bình tĩnh: – Luật Nhân quả là một quy luật của vũ trụ. Hành động của mỗi người sẽ có phản ứng tương ứng. Tất cả những gì chúng ta làm sẽ quay trở lại ảnh hưởng chính mình, vì vậy mỗi người phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Điều này được gọi là biệt nghiệp, hay nghiệp quả riêng của từng cá nhân. Vì sự phức tạp của luật Nhân quả, những người có cùng nghiệp nhân sẽ sống gần nhau, tác động lẫn nhau và chia sẻ niềm vui hoặc khó khăn cùng nhau. Điều này được gọi là cộng nghiệp, hay nghiệp quả chung của tất cả.
Mỗi quốc gia đều có nghiệp quả riêng. Những người sinh ra hoặc sống trong cùng một quốc gia có mối liên hệ và chung một cộng đồng. Cộng đồng này không chỉ áp dụng cho con người mà còn cho tất cả sinh vật sống trong quốc gia đó. Khi nhìn vào thế giới ngày nay, ta có thể tự hỏi tại sao một người sinh ra ở quốc gia này mà không phải ở quốc gia khác? Tại sao một người sinh ra trong một quốc gia giàu mạnh, hưởng thụ cuộc sống sung sướng trong khi người khác sinh ra ở những nơi nghèo đói, chiến tranh, dịch bệnh và thiên tai liên miên? Tôi muốn hiểu rõ hơn về điều này, vì vậy tôi muốn ông giải thích cụ thể hơn về nghiệp quả của mỗi quốc gia.
Ông Kris trả lời: – Ở thời kỳ ban đầu, con người tụ họp lại thành các bộ lạc. Chỉ khi có những người lãnh đạo hoặc tù trưởng tài giỏi, bộ lạc mới có thể tồn tại và không bị các bộ lạc khác tiêu diệt. Và từ các bộ lạc, chúng ta phát triển thành làng.
Xã, khi trở thành một quốc gia, trải qua một quá trình đầy khó khăn và biến động, hoàn toàn phụ thuộc vào sự lãnh đạo tài ba của những người đứng đầu. Một quốc gia được hình thành nhờ vào tầm nhìn và sứ mạng của những người tài giỏi đã đóng góp vào việc xây dựng nên nó. Nếu nhìn vào quá khứ, tất cả các quốc gia khi mới thành lập đều có những anh hùng xuất sắc, sinh ra để xây dựng một quốc gia độc lập, với văn hóa đặc trưng phù hợp với điều kiện địa lý của nó.
Giai đoạn Thành là một thời kỳ đặc biệt, thu hút rất nhiều tài năng đến để xây dựng quốc gia. Quốc gia không thể tồn tại nếu thiếu những người này. Họ phải đối mặt với những khó khăn, từ thời tiết, khí hậu, địa hình cho đến các loài thú nguy hiểm và các quốc gia lân cận, để thành lập một quốc gia độc lập. Nếu ta xem xét kỹ, ta có thể nhận ra sự vĩ đại của công cuộc xây dựng quốc gia của những người này.
Rất tiếc, hiện nay ít người nhớ được những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Những người sau này thường hay phóng đại và thêm chi tiết vào, khiến cho con cháu họ coi đó chỉ là những câu chuyện huyền thoại không có thật.
Sau giai đoạn Thành, giai đoạn Trụ bắt đầu. Trong giai đoạn này, xuất hiện nhiều nhân tài có nhiệm vụ tổ chức và thành lập các cơ cấu kinh tế, văn hóa, cung cấp điều kiện sống cơ bản cho người dân, nhằm điều hành và phát triển quốc gia, đưa nó trở thành một quốc gia hùng cường. Tuy nhiên, giai đoạn này cũng quyết định số phận của quốc gia. Tùy thuộc vào cách lãnh đạo và hành động của người điều hành quốc gia, giai đoạn Trụ có thể kéo dài lâu hay kết thúc nhanh chóng.
Nói một cách khác, hành động của người dân trong một quốc gia sẽ tạo ra những tác động ngược lại và ảnh hưởng đến quốc gia đó. Mọi người đều phải chịu trách nhiệm và hậu quả cho những việc làm của mình. Nghiệp quả của một quốc gia là một vấn đề phức tạp và khó giải thích vì có nhiều nguyên nhân, cả tốt và xấu. Mỗi quốc gia đều có đủ các loại người với những hành động khác nhau.
Có người xây dựng, có người phá hoại, có người lành, có người dữ, vì vậy dù đã gieo nhân nhưng đôi khi quả không đến ngay mà tiềm ẩn một thời gian nên nhiều người không tin vào luật Nhân.
Cuộc sống của con người thật ngắn ngủi và luật Nhân quả lại rất phức tạp, kéo dài qua nhiều đời, nhiều kiếp và liên kết chặt chẽ với nhau. Không ai có thể đoán được khi nào sẽ đến lúc chúng ta gặt hái quả ngọt đắng từ những hành động của mình. Tuy nhiên, một khi đã gieo hạt, chắc chắn sẽ có thời điểm chúng ta thu hoạch những kết quả của mình, vì luật Nhân quả không bao giờ phản bội.
Ông Kris dừng lại để tôi suy nghĩ, sau đó tiếp tục: – Vì ông đã sống tại Ai Cập nên tôi lấy nước này làm ví dụ. Sử gia Herodotus của Hy Lạp khi đến Ai Cập đã ghi nhận về tình trạng lúc đó như sau: “Những dấu vết của nền văn minh hoành tráng đã bị xoá sạch, chỉ còn lại các đền đài, lăng tẩm đổ nát, không ai chăm sóc. Tôi không tiếc cho những công trình kiến trúc bị bỏ hoang này, mà chỉ tiếc cho những công trình tâm huyết, những bí quyết kỹ thuật, tri thức của tiền nhân đã bị mất đi, vì không ai học được những điều này nữa. Dân Ai Cập sống trong cảnh khốn khổ, chỉ làm những công việc để sống qua ngày, không ai còn nhớ gì về thời kỳ hoàng kim xưa kia. Ai Cập có những cánh đồng màu mỡ nhờ sông Nile mang đến, cá tôm bơi lội thành đàn, với nhiều tài nguyên thiên nhiên nhưng người dân địa phương lại không đủ để sống. Tất cả mọi thứ đã được thu gom và mang về Nubia và Assyria.” Lịch sử Hy Lạp ghi lại rằng khi Herodotus đến đây, Ai Cập đã trải qua một thời gian dài sống dưới sự cai trị của Nubia, sau đó là Assyria, những quốc gia mà trong quá khứ các Pharaoh Ai Cập thường xâm lăng, chiếm đoạt tài nguyên, bắt nô lệ và thực hiện những hành động tàn bạo.
Tôi đau lòng suy nghĩ về hậu quả mà người dân Ai Cập đã phải chịu trong suốt hơn hai ngàn năm sống dưới sự áp bức của Nubia, Assyria, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Anh và Pháp. Một nền văn minh tuyệt vời đã bị hoàn toàn tiêu diệt, chỉ còn lại những kim tự tháp và một số đền đài, lăng tẩm đổ nát như một lời nhắc nhở về quá khứ đã qua. Ngày nay, phần lớn người Ai Cập cũng không hiểu rõ về nền văn hóa tuyệt vời của tổ tiên mình, chỉ coi đó như những câu chuyện mơ hồ và chấp nhận văn hóa Ả Rập là nền văn hóa chính.
Ông Kris nhẹ nhàng tiếp tục nói:
Luật Chu kỳ ảnh hưởng đến những chính thể, triều đại và công ty lớn. Chúng trải qua giai đoạn thành lập, phát triển, suy thoái và tiêu vong. Lịch sử chứng kiến sự tồn tại của các triều đại kéo dài hàng trăm năm và cũng có những triều đại chỉ tồn tại vài chục năm, phụ thuộc vào lãnh đạo và hành động của người cầm quyền. Tương tự, các chính thể và công ty lớn cũng có sự đa dạng về thời gian tồn tại. Có những chính thể và công ty tồn tại được vài chục năm, trong khi có những chính thể và công ty mới thành lập đã suy sụp sau ít thời gian.
Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ và khoa học, cuộc sống của con người ngày càng thay đổi nhanh chóng. Điều này dẫn đến việc các tổ chức và công ty cũng phải thay đổi nhanh hơn so với trước đây.
Trong quá khứ, các chính thể và công ty lớn thuộc thế kỷ mười chín đã tồn tại trong hơn một trăm năm. Tuy nhiên, trong thế kỷ hai mươi, hầu hết chỉ tồn tại trong khoảng tám mươi năm hoặc ít hơn.
Trong thế kỷ 21, rất ít tổ chức hoặc công ty có thể tồn tại lâu dài hơn 50 năm và sự tồn tại của chúng sẽ thay đổi theo thời gian, ngày càng ngắn đi.
Ông Kris nhấn mạnh: – Với vai trò là một nhà kinh doanh tài chính tại New York, chắc chắn ông đã biết rằng trong thế kỷ 19, năm trăm công ty lớn nhất Hoa Kỳ đã gặp khó khăn và phá sản vào đầu thế kỷ 20, chỉ có công ty General Electric là vẫn còn tồn tại. Ông cũng nhận thấy rằng thời kỳ thịnh vượng của năm trăm công ty lớn nhất trong thế kỷ 20 – như công ty sản xuất ô tô, điện lực, điện thoại – đã qua đi, hầu hết các công ty này đang đối mặt với nguy cơ phá sản hoặc sắp kết thúc để nhường chỗ cho các công ty công nghệ mới thành lập gần đây như Apple, Google, Microsoft, Amazon và những công ty khác. Tôi gật đầu đồng ý: – Những gì ông nói rất đúng và sâu sắc. Với tư cách là một chuyên gia tài chính tại thị trường New York, tôi hiểu rõ về những công ty này. Hiện nay, tất cả những công ty lớn nhất của thế kỷ 19 đã không còn tồn tại và hầu hết các công ty lớn nhất của thế kỷ 20 đang trải qua giai đoạn suy thoái và có nguy cơ phá sản. Theo ông, những công ty có ảnh hưởng lớn hiện nay sẽ tồn tại trong bao lâu?
Ông Kris nở nụ cười: – Mỗi công ty cũng có sứ mạng và nghiệp quả riêng, tùy theo tài điều khiển của người lãnh đạo và sự thay đổi thị trường, nhưng với chiều hướng thay đổi hiện nay, tôi không nghĩ một công ty nào có thể tồn tại quá bảy mươi năm. Nhân loại đang bước vào giai đoạn mà sự thay đổi sẽ diễn ra hết sức nhanh chóng và bất ngờ .
Tôi tự hỏi: – Chúng ta vừa nói về công ty, còn các quốc gia hay chính thể thì sao? Liệu trong tương lai gần sẽ có sự thay đổi lớn nào không? Ông Kris bật cười: – Làm sao tôi có thể biết được? Tôi đâu phải là nhà tiên tri. Hiện nay chúng ta đang bước vào giai đoạn Hoại thì tôi nghĩ các quốc gia hay chính thể nào cũng sẽ suy tàn. Theo suy nghĩ của tôi thì khi xưa, trong giai đoạn Trụ, nhiều nước nhỏ hợp lại thành một nước lớn hay các khối lớn, thì trong tương lai sẽ có sự tan vỡ của những nước lớn hay các khối lớn thành những phần nhỏ. Vì theo chu kỳ, tất cả mọi sự, mọi vật khi đi đến giai đoạn Hoại thì sẽ tan vỡ. Lịch sử để lại bài học rất rõ về quan niệm Chu kỳ nhưng mấy ai chịu để ý? Qua trải nghiệm về tiền kiếp, ông có thể thấy rõ sự suy tàn và hoại diệt của Atlantis và Ai Cập như thế nào rồi. Trong tương lai, khi phục hồi khả năng hồi tưởng trở lại những tiền kiếp khác, ông sẽ biết rõ hơn nữa các giai đoạn lên xuống của từng chu kỳ quốc gia .
Tôi nghi ngờ và hỏi: – Vậy là chỉ thông qua khả năng ghi nhớ, người ta mới biết được các giai đoạn đó hay sao? Kris lắc đầu: – Không hoàn toàn như vậy. Nếu nhìn vào lịch sử gần đây, bạn có thể thấy những hậu quả mà các quốc gia đang trải qua trên toàn thế giới. Ví dụ như vào thế kỷ 15, 16 và 17, Tây Ban Nha đã phát triển mạnh mẽ và trở thành nước thống trị thế giới với nhiều thuộc địa từ châu Mỹ, châu Phi đến châu Á. Họ đã đi khắp nơi để xâm chiếm, chiếm đoạt tài nguyên và giết hại vô số người vô tội. Mỗi khi tàu chiến của họ đến một nơi, họ mang đến nỗi kinh hoàng và dịch bệnh. Hầu hết các
Dân tộc bản địa ở châu Mỹ, chiếm khoảng hai phần ba dân số, đã bị tàn phá bởi các dịch bệnh do người Tây Ban Nha mang vào. Điều này đã giúp Tây Ban Nha dễ dàng chinh phục châu Mỹ.
Các nước Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Đức và Ý đã có những hoạt động khai phá và chiếm đoạt tài nguyên từ các thuộc địa trong thế kỷ mười tám và mười chín. Tuy nhiên, những hoạt động này đã gây tổn hại nghiêm trọng cho các nền kinh tế và dân chúng của các quốc gia này. Trận Thế chiến đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình, và hiện nay chúng ta cần nhìn lại và tự hỏi về tương lai của những quốc gia này.
Có bao nhiêu chu kỳ? Tương lai của những quốc gia này sẽ ra sao? Bài học lịch sử này đã dạy chúng ta điều gì? Nếu ta quan sát một cách không thành kiến, ta sẽ nhận ra rằng mọi quốc gia và toàn thế giới đều bị chi phối bởi luật Chu kỳ và luật Nhân quả. Thế giới được hình thành từ sự kết hợp của nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia bao gồm nhiều gia đình. Mỗi gia đình có nhiều thành viên, và vì vậy, mọi sự việc đều bắt đầu từ hành động của con người. Nếu mọi người đều có ý thức, hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, thì gia đình sẽ hòa thuận, quốc gia sẽ thịnh vượng, và thế giới sẽ yên bình. Ngược lại, nếu mọi người không có ý thức, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, tham lam và tranh giành, thì gia đình sẽ bị xáo trộn, quốc gia sẽ suy tàn, và thế giới sẽ rơi vào hỗn loạn.
Nhìn vào hành động của người dân sống trong một quốc gia, ta có thể nhận biết giai đoạn mà quốc gia đó đang trải qua.
Tôi có thể giúp gì cho bạn? – Vậy điều gì sẽ xảy ra khi quốc gia bước vào giai đoạn suy hoại? Ông Kris trả lời, vẻ mặt trầm ngâm: – Quốc gia nào cũng trải qua các giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Diệt .
Nếu đã thành lập, chắc chắn sẽ có thời kỳ hủy diệt và phá hoại. Sau giai đoạn Trụ là thời kỳ Hoại, khi có rất nhiều người đến quốc gia này nhưng phần lớn đến với mục đích phá hoại những gì đã được xây dựng trước đó. Tùy thuộc vào những kế hoạch đã được sắp đặt, những người này, chủ yếu là những nạn nhân bị áp bức và bóc lột trước đó, đến để trả thù hoặc đòi nợ. Họ sẽ thực hiện những hành động tồi tệ, xấu xa và đưa ra những quyết định sai lầm, khiến quốc gia này rơi vào những vấn đề tai hại không thể khắc phục.
Sau giai đoạn Hoại là giai đoạn Diệt. Từ hàng ngàn năm trước, có những quốc gia đã chìm sâu dưới biển hoặc bị động đất và chôn vùi dưới lòng đất. Giai đoạn Hoại và Diệt diễn ra như vậy. Ngay cả trái đất cũng sẽ đi đến giai đoạn suy hoại.
Theo ông, giai đoạn suy thoái diễn ra như thế nào?
Theo kiến thức của tôi, trong những năm cuối của một chu kỳ, trái đất sẽ trải qua nhiều biến đổi đáng kể. Một số biến đổi này do con người gây ra, như chiến tranh và tác động tiêu cực lên môi trường. Một số khác là do sự thay đổi tự nhiên trên bề mặt địa cầu, như động đất, núi lửa phun trào, bão tố, lũ lụt hoặc các hiện tượng khác đáng sợ. Có thể sự thay đổi này xuất phát từ đáy biển và gây ra các đợt lũ lụt toàn cầu, hoặc có thể xuất phát từ không gian và làm thay đổi nhiệt độ trái đất một cách không thường xuyên, khiến cho đất trồng trọt trở nên khô cằn và các cánh đồng biến thành sa mạc.
Có thể xảy ra các vụ cháy rừng kinh hoàng hoặc hạn hán thay đổi điều kiện địa dư biến những vùng giàu có thành những vùng hoang vu không thể sống được.
Quan niệm chu kỳ của người Hy Lạp thời cổ được gọi là “heliakos”, bao gồm một đại chu kỳ và nhiều tiểu chu kỳ. Tuy nhiên, các triết gia Hy Lạp đã viết rằng đại chu kỳ của trái đất chỉ là một tiểu chu kỳ của Thái Dương hệ. Điều này cho thấy sự thay đổi trên địa cầu chỉ là một phần nhỏ trong Thái Dương hệ, và Thái Dương hệ lại chỉ là một phần của hệ thống hành tinh trong vũ trụ. Toàn bộ hệ thống hành tinh xoay vần trong vũ trụ, với hàng triệu hệ thống, có những chu kỳ, giai đoạn, sinh rồi diệt, diệt rồi lại sinh, kéo dài vô tận. Có thể người xưa đã nhận thức rõ rệt về sự thay đổi của mọi vật và có một nhân sinh quan rộng, thâm thúy hơn chúng ta ngày nay nhờ kiến thức sâu xa về khoa chiêm tinh. Các nhà tiên tri và đạo trưởng trong các đền thờ cổ Hy Lạp đã viết rằng trong thời kỳ chuyển tiếp giữa hai chu kỳ, thế giới sẽ trải qua những thảm họa lớn. Tai ương thiên nhiên sẽ gia tăng mạnh mỗi ngày. Ban đầu, thiên tai sẽ xảy ra ở một vài nơi, nhưng sau đó sẽ lan rộng khắp nơi. Những thiên tai này sẽ góp phần vào việc thay đổi khí hậu, thời tiết, điều kiện địa dư và ảnh hưởng đến kinh tế, thương mại và cuộc sống con người. Dù xã hội có văn minh đến đâu, con người có khôn ngoan đến mấy, hay chuẩn bị kỹ càng đến thế nào, họ cũng không thể chống lại những thiên tai này.
Người Ai Cập, Hy Lạp, Ấn Độ và Trung Hoa từ ngàn xưa đã có kiến thức sâu sắc về quy luật Chu kỳ và sự thay đổi trong vũ trụ.
Theo sách vở về khoa chiêm tinh Vrishaspati của Ấn Độ, các đại chu kỳ (mahakalpa) kéo dài khoảng 4.320.000 năm. Mỗi đại chu kỳ được chia thành bốn tiểu chu kỳ (yuga): chu kỳ Satya Yuga kéo dài 1.728.000 năm, chu kỳ Tretya Yuga kéo dài khoảng 1.296.000 năm, chu kỳ Dwapara Yuga kéo dài khoảng 864.000 năm và chu kỳ Kali Yuga kéo dài 432.000 năm.
Phương pháp tính toán của người Ấn Độ rất phức tạp và chi tiết, dựa trên niên lịch chiêm tinh cổ. Mặc dù có thể có một số khác biệt so với niên lịch hiện tại, nhưng theo sách này, chúng ta đang sống trong chu kỳ Kali Yuga, thể hiện giai đoạn suy thoái và hủy hoại của đại chu kỳ hiện tại, trước khi chuyển sang một đại chu kỳ mới.
Theo triết lý Ấn Độ, sự thay đổi trên cả vật chất và tinh thần luôn tương đồng. Sự tiến hóa tâm linh của con người tương ứng với sự biến đổi trên cả vật chất.
Nhìn vào quá khứ, chúng ta thấy có những thời kỳ khi những người tài giỏi lần lượt xuất hiện, hướng dẫn con người làm những việc tốt đẹp, ta thường gọi đó là thời kỳ phồn hoa. Tuy nhiên, cũng có những thời kỳ khi những kẻ xấu xa xuất hiện, gây rối, thúc đẩy con người đàn áp, áp bức và giết hại lẫn nhau, ta thường gọi đó là thời kỳ tối tăm. Có những thời kỳ con người sống hòa thuận với thiên nhiên và nhau, nhưng cũng có những thời kỳ con người phá hủy thiên nhiên và giết chóc lẫn nhau. Đã có những quốc gia mạnh mẽ, đạt đến đỉnh cao vinh quang nhưng sau đó lại suy thoái. Đã có những nền văn minh rực rỡ, huy hoàng một thời gian, rồi suy tàn để nhường chỗ cho nền văn minh khác nổi lên. Sự kiện này đã lặp lại không biết bao nhiêu lần trong lịch sử, lên rồi lại xuống, thắng rồi lại thua, vinh rồi lại nhục.
Theo tài liệu cổ, theo những phương trình toán học, mỗi chu kỳ, vòng quay sẽ nhích lên một chút so với lần trước vì chu kỳ không phải là một vòng tròn mà là một vòng xoáy trôn ốc. Điều này có nghĩa là nhờ việc học hỏi và rút kinh nghiệm từ những bài học cần thiết, con người đã tiến bộ hơn so với quá khứ. Do đó, họ sẽ đi từ.
Các chu kỳ tiếp theo sẽ được nâng cao để tiếp tục học hỏi, không quay trở lại điểm xuất phát. Mỗi chu kỳ đều có những bài học và kiến thức cần học để chuẩn bị cho chu kỳ tiếp theo.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn thấp hơn, ta vẫn có thể thấy những sự kiện trong quá khứ được lặp lại do con người chưa rút ra bài học từ đó. “Lịch sử tái diễn” là một bi kịch đáng tiếc của nhân loại.
Bởi vì không chịu học từ những bài học trước đó, họ đã mắc phải những sai lầm mà tiền nhân đã trải qua. Tuy nhiên, không có bài học nào hiệu quả hơn sự đau khổ. Khi họ sung sướng, ít ai suy nghĩ, nhưng khi gặp khó khăn, họ mới nhìn nhận nguyên nhân. Khi khỏe mạnh, ít ai quan tâm đến sức khỏe, chỉ khi bị bệnh, họ mới nhận ra. Tất cả mọi sự, mọi việc, mọi hậu quả, đều do chính họ gây ra, không phải do người khác. Họ có thể trách trời, trách đất và trách mọi người, nhưng chỉ trách móc không giúp họ giảm bớt nỗi đau. Chỉ khi hiểu được nguyên nhân, họ mới nhận ra rằng không có việc gì không để lại hậu quả. Vì vậy, trước khi hành động, con người phải suy nghĩ về hậu quả của hành động của mình.
Tôi tự hỏi: – Trong vòng Luân hồi, có người học nhanh, có người học chậm, nhưng cũng có người không học được gì. Dù trải qua bao nhiêu kiếp, bao nhiêu khổ đau, họ vẫn không thể học được thì sao? Ông Kris nghiêm giọng: – Theo luật Luân hồi thì con người trải qua rất nhiều kiếp. Mỗi kiếp sống đều có những bài học mà họ phải tiếp thu. Có người học được ngay, có người phải trải qua nhiều kiếp mới học được. Tuy nhiên, cũng có người mặc dù trải qua biết bao nhiêu kiếp, bao nhiêu đau khổ, vẫn u mê, không học được gì. Nếu nhìn vào vũ trụ, ông sẽ thấy có hàng triệu, hàng tỷ hành tinh. Có những hành tinh đang được hình thành và có những hành tinh đang bị hoại diệt. Tất cả đều tuân theo luật Chu kỳ. Trái đất của chúng ta cũng thế, khi chu kỳ của trái đất tiến đến giai đoạn hoại diệt, nó sẽ tan vỡ. Nhưng không phải trái đất này hoại diệt rồi thì mọi người cũng bị hủy diệt đâu. Những người đã học những bài học
Của chu kỳ đó sẽ được tái sinh vào chu kỳ của một thế giới khác để học những bài học mới. Những người không học được gì, trình độ hiểu biết thấp kém, không thể tái sinh vào nơi khác có trình độ cao hơn, sẽ bị bỏ lại. Vì trái đất đã tan, những người này phải sống trong tình trạng đau khổ liên miên bất tận, phải chờ đợi khi trái đất được thiết lập lại, để học lại bài học mà họ chưa học được.
Việc tạo ra một hành tinh giống Trái Đất đòi hỏi một khoảng thời gian rất dài, có thể là hàng triệu hoặc hàng tỷ năm. Hãy cùng tưởng tượng xem trạng thái đáng thương của những người bị bỏ lại một mình, lạc lõng và vô danh sẽ như thế nào.
Ông Kris dừng lại, nhìn tôi với ánh mắt trông chờ đợi. Chúng tôi im lặng trong một khoảng thời gian khá lâu. Ông Kris không nói gì, nhưng đôi mắt của ông tỏa sáng và chiếu sáng lên tôi. Tôi ngồi yên nhưng đầu óc bỗng trở nên lúng túng vì những gì tôi vừa nghe là một cú sốc lớn. Đây là những điều mà tôi chưa từng nghĩ đến. Có thể đây chỉ là một ý tưởng của ông Kris hay một quan niệm đã tồn tại từ lâu? Mỗi khi suy nghĩ, tôi càng cảm thấy luật Chu kỳ mà ông Kris vừa trình bày rất vững chắc và hợp lý.
Sau một khoảng thời gian, tôi suy nghĩ một lúc và sau đó nói lên: – Có thể lúc này chúng ta nên đặt câu hỏi về những gì con người đã học được và tiến bộ, và văn minh hiện đại sẽ dẫn dắt chúng ta đi đến đâu? Ông Kris nhìn tôi một cách tập trung và sau đó nói một cách chậm rãi: – Hiện nay, khoa học và công nghệ đang chiếm ưu thế trên mọi lĩnh vực, có ảnh hưởng toàn cầu. Đã đến lúc chúng ta cần nghiêm túc xem xét những ảnh hưởng này để duy trì một thái độ sống cân bằng trong thế giới đang thay đổi này.
Hãy lấy ví dụ về chiếc điện thoại. Hiện nay, mọi người có thể dễ dàng liên lạc với nhau từ bất kỳ đâu trên thế giới chỉ bằng một thiết bị nhỏ gọn có thể đặt trong túi áo. Tuy nhiên, điện thoại di động cũng có thể gây nguy hiểm cho tương lai của con người. Thay vì tập trung vào việc học, lắng nghe giảng dạy của giáo viên, học sinh thường bị phân tâm bởi việc sử dụng điện thoại để chat, xem YouTube, lướt Facebook. Hầu hết mọi người ngày nay không nhận ra rằng những thiết bị này đang ảnh hưởng đến tư duy của họ. Bất kể khi nào và ở đâu, mọi người đều dán mắt vào màn hình nhỏ này. Tư duy của họ không còn tự do hoạt động mà chỉ tuân theo.
Theo mệnh lệnh của chiếc máy và phần mềm được thiết kế trong đó, con người đã vô tình để cho những vật vô tri giác này tiêu tốn toàn bộ năng lượng của mình, khiến cho họ không thể học hỏi thêm bất cứ điều gì. Tâm trí của họ đã bị suy thoái, căng thẳng đến mức không còn khả năng suy nghĩ về các bài học lịch sử, các sai lầm trong quá khứ và không biết đến sự hy sinh của những người tiền bối.
Công nghệ đã tạo ra những trò chơi điện tử. Ta hãy tự đặt câu hỏi: Những trò chơi này đã dạy gì cho thế hệ trẻ hiện nay? Có phải họ đang học những hành vi kỳ lạ, khác thường mà ta không thể tưởng tượng được? Hiện nay, từ trẻ con đến người lớn, ai cũng đam mê những trò chơi này. Họ thường coi đó là những trò giải trí vô hại, vì vậy họ học cách chơi rất nhanh và bắt chước những hành vi nguy hại trong thế giới ảo. Trong tương lai không xa, thế hệ trẻ sẽ học những hành vi xấu xa, ác độc như giết người, phá hoại, bạo lực và tình dục vì không còn khả năng phân biệt giữa thế giới ảo và thực tế. Hiện nay, những sản phẩm công nghệ tinh vi này đang lấy đi sinh lực của con người. Mọi người đều dán tâm, dán mắt vào những thứ này và hoàn toàn quên mất mọi sự diễn ra xung quanh. Khi không quan tâm, con người trở nên vô cảm, không còn biết đến sự rung động hay trắc ẩn với mọi sự nữa.
Ông Kris nói thêm, giọng nghiêm túc: – Trong thời đại công nghệ này, có rất nhiều người đang đánh mất sự thông minh thực sự vì đã vô tình để cho trí thông minh nhân tạo chi phối? Bộ óc con người đã bị các sản phẩm vật chất chi phối, dẫn đến việc không ai còn muốn suy nghĩ hay phát triển sự hiểu biết thực sự. Thay vì sử dụng trí thông minh để suy nghĩ, tìm hiểu và phát triển kiến thức về cuộc sống, họ lại để cho các sản phẩm không có ý thức này chi phối. Tại sao phải đọc sách khi chỉ cần bấm nút để máy đọc giúp? Tại sao lại phải tốn công suy nghĩ khi máy móc có thể suy nghĩ và trình bày mọi thứ mình muốn? Việc gì phải tốn công tìm kiếm khi chỉ cần hỏi Google là xong? Tại sao phải học xây dựng, kiến trúc khi máy móc thông minh có thể làm công việc này? Ông sẽ thấy trong vài năm tới, mọi người sẽ tập trung vào việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Con người không còn biết phục vụ cho lý tưởng mà trở.
Trở thành những cỗ máy chỉ biết tìm kiếm lợi nhuận, sản xuất và tiêu thụ, sống trong một vòng xoáy không hiểu biết. Trong tương lai, họ sẽ trở nên vô dụng khi con người sẽ bị thay thế và bị kiểm soát bởi những người máy.
Tôi phản đối: – Có lẽ ông đang có quan điểm tiêu cực quá. Hiện nay chúng ta đang tiến vào thế kỷ 21, thời đại của công nghệ điện tử tiên tiến và cao cấp.
Ông Kris ôn tồn nói: – Ông hỏi tôi rằng chúng ta đang ở giai đoạn Trụ hay Hoại trong chu kỳ của nhân loại ư? Điều này có lẽ tự ông phải tìm ra câu trả lời, nhưng tôi chỉ có thể cho ông biết trước một vài điều rồi ông có thể tự đi đến kết luận .
Ông bạn ơi, ông cho rằng sự tiến bộ của khoa học có ích, nhưng ông có biết rằng hiện tại, ở những phòng thí nghiệm bí mật của một số quốc gia, có rất nhiều nhà khoa học không đạo đức đang nghiên cứu và tạo ra những sinh vật kỳ quái bằng cách kết hợp yếu tố di truyền của con người vào động vật, hoặc tạo ra những loại vi rút biến đổi nguy hiểm đến tính mạng con người? Nếu những loại vi rút đáng sợ này thoát khỏi phòng thí nghiệm, điều kinh khủng sẽ xảy ra. Ông có nhớ chuyện đã xảy ra ở Atlantis, xứ Og không? Ông có biết rằng những người từ quá khứ đang trở lại để tiếp tục công việc của họ không? Họ tạo ra những sinh vật quái dị để phá hoại mà hiện tại không nhiều người biết. Thói quen quá khứ không dễ bỏ đi, và lòng ham muốn cùng kiến thức từ quá khứ đã khiến họ mất đi lương tâm. Trong tương lai gần, ông sẽ thấy con người không còn là con người nữa, mà trở thành một loại hỗn hợp giữa người và thú. Ông có thể không tin điều này, nhưng chỉ trong thời gian ngắn, ông sẽ chứng kiến những sinh vật biến dạng và khác thường này làm những việc mà ngày nay chưa ai dám nghĩ đến. Ngay cả ngày nay, có nhiều người sống vô tâm, không nhìn thấy sự đau khổ mà họ gây ra cho người khác. Họ sống mà không có ý thức, chỉ bị thúc đẩy bởi lòng tham quyền lợi và quyền lực.
Những cá nhân này sẽ xây dựng các phòng thí nghiệm, cơ sở thương mại sử dụng kiến thức ma quái từ thời cổ để tạo ra những sinh vật vô tri giác phục vụ mục đích cá nhân của họ.
Hiện nay, lĩnh vực khoa học công nghệ đang phát triển với tốc độ vượt bậc, không ai có thể kiểm soát được. Các sản phẩm công nghệ hiện nay sẽ trải qua sự thay đổi toàn diện trong tương lai gần, do sự ra đời liên tục của các phát minh mới. Không có chính quyền hoặc luật pháp nào có thể thay đổi nhanh chóng để đáp ứng sự thay đổi công nghệ hiện nay. Có rất nhiều công ty lớn sẽ bị thay thế bởi các công ty nhỏ có những phát minh, sản phẩm và kiến thức mới. Toàn cầu sẽ trở nên hỗn loạn bởi những sự thay đổi bất ngờ không thể tưởng tượng trước. Chỉ trong thời gian ngắn, con người sẽ trở nên khác biệt khi cấy ghép các bộ phận và máy móc vào cơ thể để có những khả năng đặc biệt. Tất nhiên, hiện tại bạn có thể không tin điều này có thể xảy ra, nhưng nếu bạn nhìn lại cách đây vài chục năm, khi ai đó nói rằng chúng ta có thể giao tiếp qua điện thoại di động không dây hoặc lái xe tự động, liệu bạn có tin không? Bây giờ, điều này đã trở thành điều bình thường.
Hôm nay, tôi muốn nói về những giá trị cổ xưa và những bài học lịch sử mà chúng ta cần học. Đó là vì chúng ta cần nhìn lại những tiến bộ khoa học và lợi ích về vật chất.
Không phải mọi thứ đều có ích cho con người trong hiện tại và tương lai. Tôi không phủ nhận giá trị và lợi ích của các sản phẩm khoa học công nghệ hiện nay, nhưng chúng chưa hoàn toàn phục vụ cho con người vì chúng được tạo ra bởi những người thiếu hiểu biết về hậu quả của hành động của họ.
Có nhiều nhà khoa học đã sáng chế ra những loại vũ khí hiện đại có thể gây chết chóc hàng trăm, hàng ngàn người. Tuy nhiên, họ từ chối chịu trách nhiệm và lập luận rằng vũ khí chỉ là những vật vô tri, không thể tự mình giết người, mà chỉ khi con người sử dụng chúng để giết nhau. Tương tự, nhiều người đã đưa ra các lý lẽ để bào chữa hậu quả của những học thuyết thiếu nhân tính đã gây ra sự thù hận và chiến tranh giữa các quốc gia, khiến hàng triệu người chịu đau khổ. Tuy vậy, không ai hiểu về luật Nhân quả. Dù có trí tuệ, nhưng họ chưa đủ sự nhận thức.
Để hiểu rõ hậu quả của hành động, chúng ta cần nhìn vào chân chính. Vì vậy, chúng ta cần phục hồi những kinh nghiệm từ quá khứ, học lại những bài học lịch sử và không để cho chúng lặp lại. Khi con người hành động với lương tâm và đạo đức, mọi việc họ làm đều tốt đẹp.
Ông Kris lặng im một lúc, sau đó tiếp tục: – Trong giai đoạn cuối của mỗi chu kỳ, chúng ta sẽ chứng kiến sự lan rộng của chiến tranh, các thiên tai xảy ra hàng ngày với mức độ khốc liệt (như núi lửa, sóng thần, động đất, lụt lội, hạn hán). Sau đó, sâu bọ sẽ tàn phá mùa màng và gây ra đói kém trên toàn cầu. Các đại dịch bệnh cũng sẽ bùng phát theo chu kỳ, ban đầu chỉ ở vài nơi nhưng sau đó lan rộng khắp thế giới và trở nên ngày càng nghiêm trọng và đáng sợ hơn.
Trước đây, tôi đã kể cho ông về nền văn minh Atlantis, nơi mà con người sống theo bản năng, đầy tham lam, ích kỷ và dục tính mạnh mẽ. Họ không phân biệt nam hay nữ, thậm chí còn giao phối với giống nửa người nửa thú. Một số người từ thời đó đã trở lại thế giới này và tiếp tục thói quen cũ, dẫn đến việc giao phối loạn luân và sinh ra nhiều bệnh quái lạ. Một số bệnh có thể được chữa trị, nhưng cũng có những bệnh không thể chữa được, khiến cho khoa học không thể giải quyết.
Lòng tham lam là nguyên nhân chính gây ra tình trạng luyến ái bệnh hoạn, không tuân thủ luật tự nhiên. Các dịch bệnh đáng sợ hiện nay chỉ là cảnh báo về những nguy hiểm lớn hơn sắp xảy ra, nhưng ít ai để ý đến. Nếu không ảnh hưởng đến bản thân hoặc gia đình, thì mọi người không quan tâm.
Vì thái độ vô tâm này, dịch bệnh tiếp tục lan rộng, mỗi ngày một mạnh. Ví dụ, Ebola đã bùng phát ở Guinea, Sierra Leone và Liberia, sau đó lan ra nhiều nước châu Phi. Gần đây, bệnh viêm phổi chết người tái phát ở nhiều nơi và có nguy cơ lan tràn toàn cầu. Một ngày nào đó, những dịch bệnh này sẽ gây hủy diệt vượt qua mọi tưởng tượng và lúc đó sẽ quá muộn.
Từ lâu, đã tồn tại những bệnh lây nhiễm như bệnh dịch hạch, bệnh lao phổi, bệnh đậu mùa và nhiều bệnh khác.
Trong quá khứ, con người đã gây ra hàng triệu cái chết, nhưng trong tương lai, sẽ có những căn bệnh đáng sợ hơn có thể tiêu diệt đa số dân chúng trên thế giới. Vì dịch bệnh cũng là do con người gây ra. Khi con người tàn sát và giết hại loài vật, chúng phản ứng như thế nào? Tất nhiên chúng không thể đối đầu bằng cơ thể của chúng, nhưng chúng có thể biến thành hàng triệu vi trùng hoặc vi rút gây ra dịch bệnh, khi đó con người không thể phản ứng gì. Rõ ràng, nếu con người ăn thịt loài vật, sau đó loài vật sẽ ăn thịt con người. Khi con người tìm sự thỏa mãn bằng cách giết hại và ăn thịt các loài thú rừng, những vi trùng và vi rút cũng sẽ tàn phá cơ thể con người. Và vòng xoáy này sẽ tiếp tục mãi mãi, không bao giờ kết thúc.
Nếu bạn hiểu được luật Chu kỳ và Nhân quả, bạn sẽ nhận ra rằng mọi sự thay đổi và chuyển hóa không ngừng. Mọi thứ đều có thể thay đổi từ tốt đến xấu, từ ác đến thiện. Người nghèo có thể trở nên giàu có, người giàu có cũng có thể trắng tay. Cuộc sống của chúng ta là một chuỗi các giai đoạn từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già nua và chết. Đây là chu kỳ của sự tồn tại và hủy diệt trên thế giới này. Đây là quy luật tự nhiên, liên tục theo chu kỳ. Đây là quá trình biến đổi và chuyển hóa của vũ trụ mà ít người để ý. Trong thời đại này, điều quan trọng nhất là không quên rằng chúng ta là con người, không phải loài vật. Chúng ta phải sống có ý nghĩa và mục đích. Bài học quan trọng mà chúng ta cần học là hiểu rõ luật Nhân quả và chịu trách nhiệm cho mọi hành động của chúng ta.
Và khi con người tự ý thức thay đổi và làm việc tốt, có lòng từ bi và tích đức, thì cũng có thể giảm bớt được những hệ quả xấu. Luật Nhân quả của vũ trụ xét đến nhiều yếu tố khác nhau, không chỉ đơn thuần là phép cộng trừ nhân chia.
*** Trong những cuộc trò chuyện với ông Thomas, tôi nhận thấy ông luôn nhắc đi nhắc lại nhiều lần về bài học quan trọng về Luật Nhân quả và Luân hồi. Đối với tôi, và có lẽ đối với hầu hết người châu Á, đây là những điều cần phải ghi nhớ.
Không phải là điều mới lạ. Nhiều người đã biết câu nói nổi tiếng “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Nhưng giữa biết và thấu hiểu có một khoảng cách rất xa. Từ biết, hiểu rồi trở thành niềm tin thực sự còn tùy thuộc vào độ trải nghiệm thực tế và căn duyên của mỗi người. Nhưng, trên thực tế, có nhiều chuyện mà “đừng đợi thấy mới tin”.. .
Tôi nhớ rõ ông Thomas đã chia sẻ một suy nghĩ sâu sắc, rất đáng suy ngẫm: “Vào lúc này, khi chúng ta đang nói về luật Luân hồi và Nhân quả tại căn nhà ở Colorado, thì chỉ cách đây mấy chục dặm, có hàng ngàn người đang sống, nhưng ít ai biết về những quy luật này. Nếu nhìn rộng ra cả tiểu bang này, với vài triệu người, thì cũng ít ai biết về luật Luân hồi hay Nhân quả. Nếu chúng ta quan sát cả nước Mỹ, trên ba trăm triệu người, thì cũng ít ai biết về những quy luật vũ trụ này. Và hãy nhìn khắp thế giới hơn bảy tỷ người, có bao nhiêu người đang hành động độc ác, vô nhân tính? Có những quốc gia đang đối xử tàn độc với người khác như thế nào? Có bao nhiêu cái chết thương tâm và cuộc sống bi đát của nhiều con người vô tội đã và đang diễn ra? Hãy thử nghĩ nếu tất cả đều hiểu rõ về Nhân quả, biết rõ một khi ‘gieo nhân gì sẽ gặt quả đó’ thì có ai dám hành động như thế không? Thường thì con người, khi hành động, ít ai nghĩ đến hậu quả, nhưng một khi hậu quả xảy đến thì họ nghĩ gì, làm gì? Họ oán hận, trách trời, trách đất, trách những người chung quanh hay ai đó đã gây ra những hậu quả đó? Có mấy ai biết chiêm nghiệm, tự trách và thay đổi chính mình không? Đó là động lực để tôi chia sẻ với anh những câu chuyện chưa từng kể với ai – dù có những điều thiên cơ bất khả lộ – và chấp thuận để anh chia sẻ những trải nghiệm, bài học vô tiền khoáng hậu này với các bạn của anh, có thể viết thành một cuốn sách để cho nhiều người trên thế giới cùng chiêm nghiệm giữa lúc trái đất đang có nhiều tai ương, biến động từng ngày. Tôi mong chúng ta – những cánh bướm bé nhỏ rung động mong manh cũng có thể tạo nên những trận cuồng phong mãnh liệt để thức tỉnh mọi người.
Tương lai của mỗi cá nhân, tổ chức, quốc gia và cả hành tinh này sẽ phụ thuộc vào thái độ ứng xử, quan điểm và nhận thức tỉnh của từng người, từng tổ chức.
Các quốc gia tạo nên bởi những cá nhân. Để thay đổi, chúng ta cần bắt đầu bằng việc nhận thức, thay đổi tâm thức, lan tỏa yêu thương và chia sẻ hiểu biết từ mỗi cá nhân.
Nhân quả đừng đợi thấy mới tin. Nhân quả là bảng chỉ đường, giúp con người tìm về thiện lương ” .
Tôi đã quyết định viết cuốn sách này bằng tiếng Việt – ngôn ngữ của đồng bào, đất nước yêu thương trong lòng tôi.
[1] Edgar Mitchell, một phi hành gia, đã khởi xướng việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ để khám phá những sự kiện không thể giải thích. Ông khuyến khích việc xây dựng mối liên hệ giữa khoa học và trải nghiệm nội tâm trong một viện nghiên cứu tại Palo Alto, California, mà ông cùng một số người bạn đã thành lập. Tuy nhiên, ông đã bị chỉ trích mạnh mẽ bởi dư luận. Ông qua đời vào năm 2016. [2] Vũ trụ tồn tại dưới dạng những hình thức vật chất rắn cơ bản, được tạo thành từ các phân tử và hoàn toàn không có tri giác.[3] Thần Thái Dương (Ra) là vị thần tối cao trong văn hóa Ai Cập cổ đại, biểu trưng cho ánh sáng và sự sinh trưởng. Amun là thần bảo hộ của thành phố Thebes. Trong cuốn sách này, Ai Cập được đề cập trong thời kỳ Tân Vương Quốc. Để củng cố vị trí của thần Amun, triều đình đã tôn vị trí của thần Amun lên ngang hàng với thần Ra và kết hợp hai vị thần này thành thần Amun Ra.[4] Isis là nữ thần của tình mẹ, phép thuật và sự sinh sản. Bà là một trong chín vị thần tối cao nhất trong văn hóa Ai Cập cổ đại (bộ chín vĩ đại của Heliopolis).[5] Bệnh thời khí là các bệnh phát sinh theo thời tiết và khí hậu. Đôi khi còn được gọi là bệnh theo mùa.[6] Giấy papyrus là một loại giấy được làm từ cây papyrus (cói).[7] Tử thư Ai Cập là những văn bản được sử dụng trong các nghi lễ tang lễ trong suốt hơn 1.500 năm. Chúng bao gồm các lời kinh, thần chú và hình vẽ được ghi chép trên cuộn giấy papyrus để đặt trong lăng mộ của người đã qua đời. Người ta tin rằng những lời kinh chú này cung cấp tri thức và sức mạnh cần thiết cho linh hồn người chết, giúp họ an toàn vượt qua cõi âm bất trắc và tiếp tục kiếp sau. Mỗi cuốn Tử thư được chia thành nhiều chương, nội dung được lựa chọn và kết hợp từ 192 bài kinh để miêu tả cuộc sống của người đã qua đời. Do đó, mỗi cuốn Tử thư là duy nhất, không có hai cuốn nào giống nhau. Ban đầu, Tử thư chỉ được sử dụng bởi tầng lớp thượng lưu. Tuy nhiên, trong thời kỳ Tân Vương Quốc (1570-1069 TCN), Tử thư trở nên phổ biến hơn trong xã hội.[8] Hãy xem tác phẩm Dấu chân trên cát, một tác phẩm được Nguyên Phong phóng tác và được phát hành bởi First News – Trí Việt.[9] Vùng đất này là nguyên nhân chính gây ra tranh chấp và các cuộc chiến giữa người Do Thái, người Ả Rập và người Palestine.Liên hệ: Hotline 0903.62.8186
Xem thêm các đầu sách hay tại THƯ VIỆN 10000 CUỐN SÁCH HAY PDF Hoặc xem tại: https://chungcuhanoivip.net/sach-hay/